Đầu tư quốc tế xuất hiện từ khá sớm, và hiện nay việc đầu tư này ngày càng trở nên phát triển. Cùng bài viết tìm hiểu rõ hơn về đầu tư quốc tế là gì? Tính chất và tác động của đầu tư quốc tế?
Mục lục bài viết
1. Đầu tư quốc tế là gì?
Cùng với sự phát triển chung của thương mại quốc tế, thì hoạt động đầu tư quốc tế chính là dòng chính ở trong xu hướng mà có tính quy luật của liên kết kinh tế toàn cầu. Xuất khẩu các hàng hóa và xuất khẩu lượng tài sản nhất định như là vốn, công nghệ,… sẽ luôn luôn bổ sung và tương trợ cho nhau. Những nhà đầu tư nước ngoài sẽ thực hiện việc xuất khẩu các hàng hóa nhằm để thâm nhập tìm hiểu thị trường, tìm hiểu luật lệ của nước sở tại để đưa ra những quyết định đầu tư. Đồng thời là với xuất khẩu tư bản chính là việc thành lập những doanh nghiệp đầu tư, những liên doanh để nhằm xuất khẩu các máy móc thiết bị, các vật tư sang nước tiếp nhận đầu tư và thực hiện khai thác nhân lực, lao động ở nước chủ nhà. Cùng với thương mại quốc tế, thì hoạt động đầu tư quốc tế chính là dòng chính ở trong trào lưu mà có tính quy luật trong liên kết kinh tế toàn cầu.
Đầu tư quốc tế chính là quá trình kinh tế trong đó những nhà đầu tư nước ngoài sẽ đưa vốn hoặc sẽ đưa bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư nhằm để thực hiện những hoạt động sản xuất, kinh doanh các hàng hoá và dịch vụ nhằm để thu lợi nhuận hoặc là để đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội nhất định.
Bản chất của đầu tư nước ngoài chính là xuất khẩu tư bản, hình thức là cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu tư bản chính là quá trình thực hiện về giá trị thặng dư ở nước ngoài, còn đối với xuất khẩu hàng hoá thì chính là quá trình thực hiện giá trị thặng dư ở trong nước.
2. Tính chất của đầu tư quốc tư quốc tế:
Phương tiện đầu tư quốc tế thì có thể là tiền tệ, là tài sản hữu hình (thiết bị, vật tư) hoặc là tài sản vô hình (bằng sáng chế, bi quyết kĩ thuật, hay nhãn hiệu hàng hóa…).
Chủ thể tham gia vào trong quá trình đầu tư quốc tế có thể là chính phủ, có thể là tổ chức quốc tế, hay các công ty hoặc tập đoàn kinh tế
Quá trình đầu tư sẽ luôn có hai bên khác quốc gia: đó là Bên đầu tư vốn (hay còn gọi là bên chủ đầu tư) và bên nhận vốn (hay còn gọi là bên nhận đầu tư).
Trong quá trình đầu tư, thì quyền sở hữu vốn sẽ luôn thuộc về chủ đầu tư của chính nước đầu tư, nhưng vốn sẽ được sử dụng tại nước nhận đầu tư.
Mục đích của đầu tư là để nhằm mang lại những lợi ích về kinh tế, hoặc để thực hiện các mục tiêu chính trị, xã hội. Mức độ về trách nhiệm và các quyền lợi của mỗi bên sẽ tùy thuộc vào các hình thức trao đổi do chính các bên lựa chọn. Mỗi một quá trình về đầu tư quốc tế về vốn sẽ đều có thể được đánh giá ở trên các góc độ từ rộng cho đến hẹp, như: tác động đến nền kinh tế của thế giới, tác động đến mỗi quốc gia, lợi ích của chủ sở hữu vốn.
3. Tác động của đầu tư quốc tế?
3.1. Tác động của đầu tư quốc tế đối với nước nhận đầu tư:
Tác động tích cực:
– Tác động về chuyển giao nguồn lực:
Về vốn:
+ Nhiều công ty đa quốc gia đã nhờ quy mô lớn và sức mạnh về tài chính để tiếp cận được các nguồn lực tài chính mà những hãng của nước nhận đầu tư không tiếp cận được.
+ Nguồn tài chính:
Dùng chính nguồn lực của công ty và dễ dàng vay tiền từ các thị trường vốn hơn là các hãng ở nước nhận đầu tư.
Về công nghệ:
+ Công nghệ tồn tại dưới hai dạng đó chính là công nghệ được tích hợp trong một quy trình sản xuất và công nghệ tích hợp trong một sản phẩm;
+ Nước nhận đầu tư thường sẽ ưu tiên tiếp cận công nghệ thông qua việc là cấp license hơn là FDI;
+ Các nhân viên địa phương sẽ được đào tạo nhằm để nắm giữ những vị trí quản lý, tài chính và kỹ thuật ở những công ty con của một MNCs (viết tắt của Multi- national Corporations) nước ngoài rời khỏi hãng đó và sẽ giúp thành lập các hãng bản xứ;
+ Các kỹ năng quản lý ưu việt của một MNC nước ngoài sẽ thúc đẩy các nhà cung ứng, những nhà phân phối và những đối thủ cạnh tranh địa phương cải tiến những kỹ năng quản lý của họ;
+ Các lợi ích này sẽ có thể giảm đáng kể nếu như hầu hết các công việc quản lý và phải đòi hỏi về kỹ năng cao ở những công ty con được dành cho các công dân của chính nước chủ đầu tư.
– Tác động về việc làm:
+ Tạo ra việc làm cho chính nước nhận đầu tư.
+ Tác động việc làm vừa tác động gián tiếp lại vừa tác động trực tiếp:
Tác động trực tiếp: MNC nước ngoài thuê lao động là những công dân nước chủ nhà
Tác động gián tiếp: việc làm được tạo ra cho những nhà cung ứng địa phương chính là kết quả của đầu tư ở trong các ngành công nghiệp phụ trợ. Ngoài ra thì việc làm được tạo ra bởi vì các chi tiêu nội địa của những nhân viên của MNC gia tăng.
– Tác động đến cán cân thanh toán:
+ Những hạng mục của cán cân thanh toán của một nước: sẽ theo dõi các khoản chi của nước đó và những khoản thu của nước đó từ các nước khác
+ Các hạng mục của cán cân thanh toán:
Hạng mục vãng lai: sẽ ghi chép các giao dịch thuộc về 3 hạng mục đó là thương mại hàng hoá, xuất nhập khẩu dịch vụ, thu nhập đầu tư.
Hạng mục vốn: sẽ ghi chép các giao dịch liên quan đến việc mua hay là bán các tài sản.
– Tác động đến cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế:
+ Bằng việc tăng sự lựa chọn của những người tiêu dùng, FDI sẽ có thể giúp tăng về mức độ cạnh tranh ở thị trường trong nước, và nhờ đó sẽ làm giảm giá bán và sẽ làm tăng phúc lợi kinh tế của người tiêu dùng.
+ Tác động của đầu tư FDI đến vấn đề cạnh tranh ở thị trường trong nước và đặc biệt quan trọng đối với dịch vụ, các lĩnh vực mà không thể xuất khẩu được bởi lẽ các dịch vụ đó sẽ phải được sản xuất ở nơi nó được cung cấp.
Tác động tiêu cực:
– Tác động bất lợi đến cạnh tranh ở nước chủ nhà:
+ Những công ty con của các MNE nước ngoài sẽ có thể có sức mạnh kinh tế lớn hơn những đối thủ cạnh tranh nội địa. Công ty MNE nước ngoài cũng có thể huy động về nguồn tài chính được tạo ra ở nơi khác nhằm để tài trợ cho những khoản chi phí của mình ở thị trường nước chủ nhà, đẩy những công ty bản địa ra khỏi ngành kinh doanh và sẽ độc quyền trên thị trường nước chủ nhà.
+ Khi thị trường đã trở thành độc quyền, MNE nước ngoài họ có thể tăng giá trên ở mức tồn tại trong những thị trường cạnh tranh, sẽ tác động có hại đến phúc lợi kinh tế của nước chủ nhà.
+ Thường được những đối thủ cạnh tranh bản xứ hoạt động mà không hiệu quả sử dụng khi mà họ vận động hành lang chính phủ hạn chế FDI của những MNEs nước ngoài.
– Tác động bất lợi đến cán cân thanh toán:
+ Dòng chảy thu nhập từ những công ty con ở nước ngoài sang các công ty mẹ của nó. Dòng chảy ra như vậy thì sẽ được ghi vào bên nợ ở trên hạng mục vãng lai của nước chủ nhà.
+ Khi mà một công ty con ở nước ngoài thực hiện nhập khẩu đáng kể đầu vào của nó từ nước ngoài, thì sẽ dẫn đến một khoản nợ ở trên hạng mục vãng lai của BOP của nước nhận đầu tư.
– Tác động đến chủ quyền và tự trị quốc giá:
+ Những quyết định chủ yếu sẽ có thể ảnh đến nền kinh tế nước chủ nhà và được đưa ra bởi một công ty mẹ ở nước ngoài mà công ty này lại không có cam kết thực tế đối với những nước nhận đầu tư, và chính phủ của nước nhận đầu tư thực tế không kiểm soát được công ty mẹ này.
+ Nếu như người nước ngoài sở hữu những tài sản ở Hoa kỳ, thì họ có thể bằng cách này hay là cách khác sẽ “đòi Hoa kỳ phải nhượng bộ bằng cách đe doạ”
+ Hầu hết là các nhà kinh tế cho rằng các mối quan tâm như vậy là hoàn toàn không có cơ sở và bất hợp lý bởi lẽ chúng không thể giải thích cho chính sự phụ thuộc lẫn nhau của chính nền kinh tế thế giới ngày càng tăng.
3.2. Tác động của đầu tư quốc tế đối với nước chủ đầu tư:
Tác động tích cực:
– Tác động đến BOP:
+ Dòng chảy thu nhập từ nước ngoài về
+ FDI cũng sẽ làm lợi cho hạng mục vãng lai của BOP của các nước chủ đầu tư nếu như công ty con ở nước ngoài tạo ra các nhu cầu cho việc xuất khẩu của chính nước chủ đầu tư đối với các thiết bị máy móc, các hàng hóa trung gian, các sản phẩm bổ sung và các hàng hoá tương tự.
– Tác động đến việc làm:
+ Khi mà công ty con ở nước ngoài tạo ra về nhu cầu cho việc xuất khẩu đối với các thiết bị máy móc, các hàng hóa trung gian, các sản phẩm bổ sung và các hàng hoá tương tự xuất khẩu của nước chủ đầu tư
– Tác động đến chuyển giao nguồn lực:
+ Tác động chuyển giao nguồn lực ngược.
+ MNE ở chính nước chủ đầu tư sẽ học được các kỹ năng quý giá từ việc là tham gia các hoạt động ở thị trường nước ngoài, các kỹ năng này sau đó sẽ có thể được mang trở về chính nước chủ đầu tư đóng góp về sư tăng trưởng kinh tế của nước chủ đầu tư.
Tác động tiêu cực:
– Tác động đến BOP:
+ Hạng mục vốn của BOP sẽ bị ảnh hưởng do dòng chảy vốn ban đầu nhằm để đầu tư FDI.
+ Hạng mục vãng lai của BOP sẽ bị ảnh hưởng nếu như mục đích của đầu tư nước ngoài chính là để phục vụ cho thị trường của nước chủ đầu tư từ những cơ sở sản xuất chi phí thấp
+ Hạng mục vãng lai của BOP cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu như đầu tư FDI là để thay thế cho xuất khẩu trực tiếp
– Tác động đến việc làm:
+ Đầu tư FDI để thay thế cho việc sản xuất trong nước: khiến cho việc làm ở nước chủ đầu tư giảm đi.
Nếu như thị trường lao động ở nước chủ đầu tư đang rất ít thất nghiệp thì mối quan tâm này sẽ có thể không nhiều lắm còn nếu như nước chủ đầu tư mà đang bị tác động vì tình trạng thất nghiệp, thì mối quan tâm về việc xuất khẩu về việc làm có thể nảy sinh.
+ Đầu tư FDI được thực hiện để phục vụ thị trường nước chủ đầu tư:
Người tiêu dùng ở các nước chủ đầu tư sẽ được lợi nếu như giá cả của hàng hoá giảm chính là kết quả của hoạt động đầu tư FDI.
Nếu một công ty mà bị cấm đầu tư với lý do chính là có những tác động việc làm tiêu cực trong khi những đối thủ cạnh tranh quốc tế của các công ty này đã hưởng các lợi ích của những cơ sở sản xuất có chi phí thấp, thì các công ty đó chắc chắn sẽ mất về thị phần cho các đối thủ cạnh tranh quốc tế của mình.