Đại thi hào Nguyễn Du? Truyện Kiều và đoạn trích Chị em Thúy Kiều? Dàn bài phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều? Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều? Những nghệ thuật đặc sắc được sử dụng trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều?
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một đoạn trích nổi bật của tác phẩm “Truyện Kiều”. Bài phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một đề bài hay và khá hay gặp ở các đề thi THPT.
Mục lục bài viết
1. Đại thi hào Nguyễn Du :
Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh tại kinh thành Thăng Long (Hà Nội). Cha là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, làm quan đến chức Tham tụng (Tể tướng) dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần quê ở Kinh Bắc –Bắc Ninh. Nguyễn Du ra đời trong một gia đình đại quý tộc, có thế lực vào bậc nhất đương thời.
Qua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành… nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.
Chính trên cơ sở này mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của một bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra: vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán đến truyện Kiều, nó tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết tác phẩm của ông.
Sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành ngay từ lúc ông còn sống. Tương truyền Truyện Kiều được Phạm Quý Thích nhuận sắc và cho in ở phố Hàng Gai – Hà Nội lúc ấy. Sau khi Nguyễn Du mất chỉ vài chục năm, vua Tự Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An thu thập tất cả di cảo của Nguyễn Du để đưa về kinh. Từ đó đến nay, việc sưu tập, nghiên cứu phổ biến di sản văn học của Nguyễn Du vẫn còn tiếp tục. Còn có những ý kiến hồ nghi tác giả một số bài thơ chữ Hán vẫn được coi là của Nguyễn Du. Việc xác định thời điểm ra đời của các tác phẩm chưa được giải quyết, kể cả thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều. Mặc dù đã mất nhiều công sức, nhưng các ý kiến trong giới nghiên cứu vẫn còn rất khác nhau.
2. Tác phẩm Truyện Kiều:
Hoàn cảnh sáng tác
Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805-1809)dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc những phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn, mang đến sự thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm
Truyện Kiều thuộc thể loại Truyện thơ Nôm, 3254 câu thơ lục bát
Bố cục Truyện Kiều gồm 3 phần:
Phần 1: Gặp gỡ và đính ước
Phần 2: Gia biến và lưu lạc
Phần 3: Đoàn tụ
Giá trị nội dung:
Giá trị hiện thực
– Truyện Kiều phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và thế lực hắc ám chà đạp lên quyền sống con người
– Truyện Kiều phơi bày nỗi khổ đau của những người bị áp bức, đặc biệt là người phụ nữ
Giá trị nhân đạo
– Là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất cao đẹp của con người như nhan sắc, tài hoa,…đề cao vẻ đẹp, ước mơ và khát vọng chân chính của con người
– Nguyễn Du bộc lộ niềm thương cảm sâu sắc trước những khổ đau của con người, ông xót thương cho Thúy Kiều, một người con gái tài sắc mà phải lâm vào cảnh bị đọa đầy
– Tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của những con người lương thiện
Giá trị nghệ thuật
Về ngôn ngữ: ngôn ngữ giàu và đẹp, đạt đến đỉnh cao của ngôn ngữ văn chương
Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc: Ngôn ngữ kể chuyện có ba hình thức là trực tiếp, gián tiếp và nửa trực tiếp, nhân vật xuất hiện với cả con người hành động và con người cảm nghĩ
Nghệ thuật xây dựng nhân vật đạt đến thành công vang dội, cách xây dựng nhân vật chính thường được miêu tả bằng lối ước lệ, tượng trưng; nhân vật phản diện thường được khắc họa theo lối hiện thực hóa
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, có những bức tranh thiên nhiên tả cảnh ngụ tình đặc sắc
3. Dàn bài phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều:
Mở bài:
Giới thiệu về Truyện Kiều và đoạn trích Chị em Thúy Kiều:
– Truyện Kiều là kiệt tác văn học của Nguyễn Du, giàu tính hiện thực, nhân đạo và mang nhiều giá trị nghệ thuật to lớn.
– Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Thuý Kiều, đặc biệt miêu tả tài sắc của Thuý Kiều và Thuý Vân.
Thân bài:
Bốn câu đầu giới thiệu về chị em Thúy Kiều, Thúy Vân
– Ngắn gọn: là hai con gái đầu lòng, Thúy Kiều là chị cả, Thúy Vân là em.
– Tác giả dùng từ “tố nga” để khẳng định đây là hai cô gái đẹp; “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” nói về nhân cách, phẩm hạnh trong sáng, thuần khiết.
⇒Khẳng định: “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.
Gợi tả vẻ đẹp của Thuý Vân (4 câu tiếp)
– Câu thơ đầu: giới thiệu và khái quát đặc điểm của nhân vật
– “Trang trọng”: nói lên vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thuý Vân.
– Tác giả so sánh vẻ đẹp của Thúy Vân với trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết: những hình ảnh đẹp trong thiên nhiên.
⇒Tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, lấy chuẩn mực thiên nhiên đo vẻ đẹp con người.
– Từ ngữ “thua”, “nhường” cùng chân dung được miêu tả đầy đặn, đoan trang: tác giả báo trước tính cách số phận của Thúy Vân êm đềm, hoà hợp, suôn sẻ.
Gợi tả vẻ đẹp của Thuý Kiều (12 câu tiếp)
– Câu thơ đầu khái quát tài sắc của Thuý Kiều: “càng sắc sảo, mặn mà”
⇒Vẻ đẹp trưởng thành, tinh anh, thông tuệ, có tài có sắc.
– Tác giả tiếp tục dùng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu.
⇒Tập trung gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt: đôi mắt là “cửa sổ tâm hồn”, thể hiện hết vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của nhân vật.
– Tả tài năng, tâm hồn Thúy Kiều:
+ Tinh thông cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), hoạ (vẽ), đặc biệt ca ngợi tài chơi đàn “ăn đứt hồ cầm một trương”.
+ Tâm hồn đa sầu, đa cảm: “thiên bạc mệnh” mà Kiều tự sáng tác cho thấy tâm hồn nhạy cảm, thương người, thương đời của Kiều.
⇒Thúy Kiều đẹp toàn diện cả sắc, tài, tình, đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”
– Miêu tả Thuý Kiều, tác giả dùng những từ chỉ mức độ: ghen, hờn ⇒thiên nhiên phải ghen tị, hờn giận trước vẻ đẹp và tài năng, tâm hồn của Thúy Kiều, từ đó báo hiệu một cuộc đời nhiều gian nan, sóng gió.
Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em (4 câu cuối)
“Phong lưu rất mực hồng quần”: Gợi hoàn cảnh sống của hai chị em thúy Kiều, họ sống trong phong lưu của mọt gia đình gia giáo.
Hai chị em luôn sống theo khuôn phép, đức hạnh, theo đúng khuôn khổ của lễ giáo phong kiến. Tuy cả hai đều “đến tuần cập kê” nhưng vẫn “êm đềm trướng rủ màn che- tường đông ong bướm đi về mặc ai”.
Nhận xét về nghệ thuật:
Thủ pháp ước lệ tượng trưng: lấy từ chỉ thiên nhiên tả vẻ đẹp con người. Đây là thủ pháp thường thấy trong văn học Trung đại.
Thủ pháp đòn bẩy: tác giả tả Thúy Vân trước, chỉ dùng bốn câu thơ để tả vẻ đẹp của Thúy Vân, dùng mười hai câu thơ tả cả tài sắc và tâm hồn Thúy Kiều nên càng làm tăng thêm vẻ đẹp toàn diện của Thúy Kiều.
Sử dụng từ ngữ có tính chất tiên đoán số phận: tiên đoán số phận Thúy Vân êm đềm qua hình ảnh thiên nhiên “thua, nhường”, số phận Thúy Kiều trắc trở qua hình ảnh thiên nhiên “ghen, hờn”.
Kết bài:
Nhận xét về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:
Đoạn trích miêu tả tài sắc chị em Thuý Kiều cho thấy Nguyễn Du trân trọng, đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ. Lòng thương cảm bộc lộ ngay từ những dự đoán số phận nhân vật.
Ngôn ngữ giàu cảm xúc, vận dụng một cách linh hoạt các biện pháp nghệ thuật ước lệ, so sánh, ẩn dụ.
4. Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“
Ở những câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du giới thiệu với độc giả hai người con gái của viên ngoại họ Vương:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Thoạt đầu, bốn câu thơ cất lên, người đọc hình dung ra hai thiếu nữ xinh đẹp “hai ả tố nga”, người em tên Thúy Vân còn người chị là Thúy Kiều. Mỗi người mang một nét đặc trưng riêng tựa như hai loài hoa khác nhau, nhưng đều đẹp tuyệt mỹ, tỏa sắc, tỏa hương “mười phân vẹn mười”. Đó là một vẻ đẹp tròn đầy, cả vẻ bề ngoài lẫn nhân cách, tài năng. Cốt cách của họ được Nguyễn Du ví như “mai” như “tuyết”, trong sáng, thanh thuần, mộc mạc.
Vẻ đẹp của người em gái Thúy Vân hiện lên rõ nét, ngắn gọn trong bốn câu thơ tiếp theo:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Nàng Vân có một vẻ đẹp mà không ai có thể có được “khác vời”. Đó là vẻ đẹp đầy sự sang trọng, quý phái, đoan trang, xứng đáng là một thiếu nữ đài các. Nét đẹp của nàng
Vân được họa nên bằng các hình ảnh ước lệ, tượng trưng: khuôn mặt tròn trịa, phúc hậu tựa mặt trăng, đôi lông mày rậm rạp, sắc nét.
Những hình ảnh ước lệ như càng làm tăng thêm vẻ đẹp của nàng. Tính cách nhã nhặn, ôn nhu, cười tươi tựa hoa nở, lời nói đều là lời vàng, ý ngọc. Vẻ đẹp đó đã đạt tới mức khiến sự vật xung quanh phải e thẹn, kính nể “mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Những hình ảnh nhân hóa “thua, nhường” dự báo cho một cuộc sống êm đềm, thuận lợi của Thúy Vân.
Nhà thơ miêu tả về Thúy Vân như làm nền, đòn bẩy để làm tăng thêm nét đẹp của Thúy Kiều. Khi miêu tả Vân chỉ gói gọn trong bốn câu thơ nhưng khi nói về Kiều, thi nhân đã dành hẳn mười hai câu thơ, đủ để nhận thấy tác giả có cảm tình thế nào với phận hồng nhan, bạc mệnh này:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Vân đã đẹp đến thiên nhiên cũng phải kiêng dè, Kiều lại đẹp hơn nhiều lần: “càng sắc sảo mặn mà”, “phần hơn”. “Sắc sảo” chính là nét đẹp trưởng thành, thông tuệ. Để có thể khắc họa một cách chân thực nhất sắc đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khai thác triệt để thủ pháp ước lệ, các hình ảnh tượng trưng, đặc biệt tập trung vào đôi mắt “làn thu thủy”. Đôi mắt nàng trong trẻo, bình lặng và ẩn chứa nhiều tâm sự.
Từ đôi mắt ấy, ta cảm nhận được một tâm hồn đa sầu, đa cảm, giàu tình yêu thương của nàng. Bên cạnh đôi mắt như làn nước mùa thu, cặp lông mày được ví là “nét xuân sơn”. Như dáng núi mùa xuân, giúp chúng ta liên tưởng đến đôi mày liễu, gọn mảnh, cong, mang đến vẻ đẹp xuân sắc cho cả khuôn mặt. Đó cũng là một nét đẹp tuyệt hiếm có, biểu lộ tính cách nhu thuận, dịu dàng của người phụ nữ.
Nhưng tại sao không trực tiếp ví đôi lông mày của nàng như lá liễu mà phải ví như núi mùa xuân. Bởi cuộc đời nàng cũng truân chuyên, khúc khủy, lên xuống gập ghềnh tựa như núi. Không chỉ như vậy, vẻ đẹp thuần khiết, tự nhiên của nàng còn có thể làm “nghiêng thành, nghiêng nước”, giao tranh kịch liệt mà hoa, liễu cũng phải hờn ghen. Phải chăng số trời đã báo trước về cuộc sống mai sau của Thúy Kiều sẽ không được êm đềm, hạnh phúc, ngược lại luôn phải chịu nhiều điều bất hạnh, bi thương.
Phân tích chị em thúy kiều ta thấy về nhan sắc, Thúy Kiều đã hơn Thúy Vân một bậc còn về tài năng lại càng giỏi hơn mấy phần:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Tư tưởng Nho giáo cho rằng người phụ nữ không cần quá xuất sắc về mọi mặt thì đã có thể hạnh phúc vẹn tròn, tiêu biểu cho hình mẫu của Thúy Vân; còn ngược lại phụ nữ mà vừa có nhan sắc, lại còn có tài giỏi thì bạc mệnh.
Đây là sự ảnh hưởng của tư tưởng thời bấy giờ đến thơ ca của thi sĩ. Nhà thơ cho rằng: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Thúy Kiều vốn là thần đồng từ nhỏ, trí thông minh do trời phú. Thêm vào đó, những ngón nghề cầm, kỳ, thi, họa nàng đều thông thạo, giỏi giang.
Mà đặc biệt nhất là tài năng âm nhạc của nàng: “Cung thương làu bậc ngũ âm/Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”. Nàng có thể tự mình sáng tác nhạc, phổ nhạc, viết lên tiếng lòng của kẻ đa sầu cũng là cuộc đời lắm bạc bẽo, đau thương của nàng “một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”, thật khiến cho người ta đau lòng. Cũng bởi “chữ tài đi với chữ tai một vần.”
Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du mở ra không gian sống khá giả, êm đềm của hai thiếu nữ:
Phong lưu rất mực hồng quần ,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,
Êm đềm trướng rủ màn che.
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Xinh đẹp, tài năng, đã đến tuổi lấy chồng và được nhiều người theo đuổi “ong bướm đi về”, Kiều và Vân sống trong khuôn phép, gia giáo “trướng rủ màn che”, cứ chuyên tâm sống một đời êm đềm, hạnh phúc.
Phân tích Chị em Thúy Kiều bước đầu cho thấy được tài năng, bút lực của Nguyễn Du. Ông đã thành công khắc họa chân dung hai nhân vật một cách sống động và sắc nét qua thể thơ lục bát truyền thống, kết cấu tinh tế. Bên cạnh đó, bút pháp ước lệ tượng trưng, hình ảnh so sánh nhân hóa đặc sắc được lồng ghép khéo léo đã đưa đến cho người đọc những cảm xúc khó tả; vừa xuýt xoa trước vẻ đẹp hội tủ đủ: sắc, tài , tình, mệnh vừa khiến người ta nhói lòng trước sự báo số mệnh của nàng Thúy Kiều.
“Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”. Chẳng biết Nguyễn Du sở hữu bao nhiêu tài năng, dành bao nhiêu tâm huyết để vẽ nên bức tranh có một không hai ở “Chị em Thúy Kiều”. Bức tranh tinh tế, sống động, chân thật và gần gũi, mà khi nhìn ngắm người ta có thể cảm nhận được từng hơi thở của thi sĩ, giọt nước mắt thương cảm về số phận phía trước chẳng mấy hoan hỉ của Thúy Kiều. Ngay bây giờ và đến mãi về sau, Truyện Kiều luôn là áng văn chương bất hủ truyền tụng đời đời.
5. Nét nghệ thuật đặc sắc nhất được sử dụng trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều:
Nghệ thuật nổi bật của đoạn trích là nghệ thuật khắc họa nhân vật lí tưởng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng – lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của con người, không miêu tả chi tiết cụ thể mà tả để gợi, sử dụng biện pháp đòn bẩy làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.