Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu về nội dung tóm tắt Cuộc đời, phong cách và sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài ngắn gọn. Chúc các bạn có thêm nhiều tài liệu để ôn tập thật tốt. Cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Tiểu sử cuộc đời nhà văn Tô Hoài:
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen sinh ngày 7 tháng 9 năm 1920 tại làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức – tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghĩa Đô – quận Cầu Giấy – Hà Nội) trong một gia đình thợ thủ công. Ông còn có nhiều bút danh khác như: Mai Trung, Duy Phương, Mắt Biển, Hồng Hoa, Vũ Đạt Đạt,…
Bút danh Tô Hoài của ông xuất phát từ địa danh biển nổi tiếng gắn bó với cả tuổi thơ và những năm tháng tuổi trẻ của ông là Phủ Hoài Đức và dòng sông Tô Lịch. Ngoài bút danh Tô Hoài, ông còn dùng nhiều bút danh khác như Vũ Túc Đạt, Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Hồng Hoa, Phạm Hoa.
Quê quán: xã Kim An – huyện Thanh Oai – tỉnh Hà Tây.
Lúc còn trẻ, Tô Hoài phải bươn trải nhiều nghề để mưu sinh như: dạy thêm, bán hàng, làm kế toán cho các hiệu buôn,… Năm 1938, ông chịu ảnh hưởng của Mặt trận Bình dân và tham gia trong các hoạt động. Hoạt động tích cực trong tổ chức Hội Ái hữu Okho và Thanh niên Dân chủ Hà Nội.
Năm 1943, Tô Hoài tham gia Hội Văn nghệ cứu quốc và bắt đầu viết các bài Cứu quốc và Cờ giải phóng.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Tô Hoài làm chủ bút báo Cứu Quốc. Ông là một trong những cây bút hàng đầu của Nam Bộ và đã tham gia một số chiến dịch ở mặt trận Nam Bộ (Nha Trang, Tây Nguyên…). Năm 1946, ông được kết nạp Đảng.
Năm 1950, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957 đến năm 1980, Tô Hoài giữ nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà văn như: Ủy viên TƯ Đảng, Phó Tổng Thư ký, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, Giám đốc Nhà xuất bản Thiếu nhi.
Từ năm 1954 trở đi, ông được tập trung sáng tác. Đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc các thể loại: truyện ngắn, truyện dài, hồi ký, kịch bản phim, tùy bút và thể nghiệm viết.
Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi.
2. Sự nghiệp văn học của nhà văn Tô Hoài:
Tất cả các tác phẩm của ông đều được giới chuyên môn đánh giá cao bởi nội dung phong phú, lôi cuốn người đọc bởi lối kể chuyện hồn nhiên, hóm hỉnh và sâu sắc.
Trong suốt sự nghiệp hoạt động nghệ thuật của mình, Tô Hoài đã nhận được nhiều giải thưởng cao quý do nhà nước trao tặng, đó là:
– Giải nhất Tiểu thuyết của Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam 1956 (Truyện Tây Bắc)
– Giải A Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội 1970 (Tiểu thuyết Quê hương);
– Giải thưởng của Hội nhà văn Á – Phi năm 1970 (tiểu thuyết phương Tây);
– Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (QĐ1 – 1996).
– Giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội 2010.
Các tác phẩm chính của nhà văn Tô Hoài:
Sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có gần 200 đầu sách thuộc các thể loại: Ký sự Dế Mèn (truyện, 1941); Hộp chuột (tập truyện, 1942); Chuyện Tây Bắc (tập truyện, 1953); Miền Tây (tiểu thuyết, 1967); Ba người khác (tiểu thuyết, 2006),…
Tô Hoài là một nghệ sĩ rất đa tài, trong suốt sự nghiệp văn chương của mình ông đã dày công sáng tác hàng trăm tác phẩm đủ các thể loại như tiểu thuyết, truyện vừa, tùy bút, ký sự, truyện ngắn và ký sự. nhân vật, tự truyện, tiểu luận phê bình, truyện thiếu nhi, thậm chí cả những bài viết rút gọn.
Trước cách mạng tháng Tám, văn học của ông chủ yếu viết về loài vật và chuyện người dân quê nghèo khổ.
Cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp cầm bút, nhà văn Tô Hoài đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho nền văn học nước nhà và được coi là cây đại thụ trong rừng văn học hiện đại Việt Nam.
Khởi nghiệp từ trước Cách mạng Tháng Tám, sau hơn 60 năm lao động nghệ thuật, nhà văn Tô Hoài đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, hồi ký, kịch bản phim, tùy bút và thể nghiệm viết văn. Ở mọi thể loại sáng tác, Tô Hoài cũng tạo được một giá trị riêng, một diện mạo riêng không thể đánh bật và để lại nhiều dấu ấn với những tác phẩm có giá trị.
Một số tác phẩm đáng chú ý từ thời kỳ này là:
– Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện, 1941)
– Quê người (1941)
– O chuột (1942)
– Giăng thề (1943)
– Nhà nghèo, Xóm giếng ngày xưa, Cỏ dại (1944)
Trong đó nổi bật nhất là truyện Dế Mèn, một tác phẩm văn xuôi viết về nhân vật miêu tả bức tranh thiên nhiên vô cùng sinh động, kì thú với nhiều bài học cuộc sống ý nghĩa mà tác giả gửi gắm. . Đây là tác phẩm dành cho thiếu nhi và đã được tái bản nhiều lần, dịch và xuất bản ở một số nước trên thế giới
Sau cách mạng tháng Tám, ông đã có những chuyển biến mạnh mẽ trong phong cách và tư duy sáng tạo trước những tác động phản ánh cuộc sống lầm than của nhân dân dưới ách thống trị tàn bạo của quân xâm lược và bọn phản động. với cách giải phóng mạng của họ.
Các tác phẩm tiêu biểu trong thời kỳ này là:
– Vợ chồng A Phủ
– Núi cứu quốc (1948)
– Truyện Tây Bắc (1953)
– Mười năm (1957)
– Miền Tây (1967)
– Cát bụi chân ai (1992)
– Ba người khác (2006)
Hiện ông đã xuất bản 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại và vinh dự trở thành một trong số ít nhà văn Việt Nam hiện đại có nhiều đầu sách nhất từ trước đến nay trong sự nghiệp sáng tác của mình.
Cuộc đời và sự nghiệp văn chương đồ sộ của Tô Hoài rất ít tác giả sánh bằng. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà nhiều giá trị cao quý.
3. Phong cách sáng tác của Tô Hoài:
Tô Hoài là một nhà văn đa tài, trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình ông đã sáng tác rất nhiều tác phẩm thuộc các thể loại từ tiểu thuyết đến tùy bút, truyện ngắn, báo chí, v.v.
Sự xuất hiện của Tô Hoài trên Văn đàn Việt Nam được coi là khá hiếm hoi so với các nhà văn, nhà thơ lúc nửa đêm. Ở tuổi 17, 18, Tô Hoài đã chọn lọc hàng loạt tác phẩm nổi tiếng và khẳng định tuổi thơ của mình.
Một con người nhiều trải nghiệm, nhạy cảm với thế giới xung quanh Tô Hoài mang đến cho người đọc những tác phẩm “đời”, chân thực đến từng câu chữ. Phong cách viết của Tô Hoài có hai giai đoạn cụ thể. Trước Cách mạng Tháng Tám, tác phẩm của ông xoay quanh những người nông dân nghèo khổ. Sau cách mạng tháng Tám, sáng tác của ông có sự chuyển biến rõ rệt, ông bắt đầu viết về nông thôn ở quê nhà.
Một trong những tác phẩm hay nhất của Tô Hoài phải kể đến “Vợ chồng A Phủ” nằm trong tập truyện Tây Bắc (1952) đoạt giải nhất Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955. Tác phẩm kể về câu chuyện đầy mâu thuẫn và đau khổ của Mị khi phải sống kiếp người không bằng một con trâu, con bò. Bề ngoài Mị có vẻ nhẫn nhịn nhưng bên trong luôn hừng hực một sức sống khát khao, sự xuất hiện của A Phủ đã tiếp thêm động lực để Mị trốn chạy. Tác phẩm với nhiều tình tiết giá ngưỡng để lại cho người đọc nhiều cảm xúc.
4. Cảm nhận về Tô Hoài:
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của thế kỷ 20. Anh thuộc thế hệ thứ 20, từ 1920 trở đi. Đó là thế hệ vàng của văn học hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học thế kỷ XX – tạo mùa ngoại 1930 – 1945, cùng với Nguyễn Công Hoan,
Có những nhà văn, nhà thơ tôn vinh chữ Hán, chữ Nôm. Ông Tô Hoài cùng với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… đã tôn vinh chữ quốc ngữ. Càng gần gũi với các thế hệ đi trước, tôi càng hiểu giá trị của những giây phút được ở bên họ, kể cả khi các anh im lặng. –
Tô Hoài là nhà văn lớn của Văn học Việt Nam hiện đại, cả đời đã 95 tuổi nhưng đã có hơn 70 năm cống hiến cho văn học. Ông là cây bút chuyên nghiệp, sáng tác bền bỉ và có khối lượng tác phẩm đồ sộ.
5. Lời phê bình văn học:
“Không chỉ hấp dẫn người đọc ở nguồn tư liệu mới mẻ về đời sống văn nghệ một thời mà còn ở giọng văn, cách tạo không khí truyện trong tác phẩm của Tô Hoài.
Dù ở thể loại nào, hồi ký hay tiểu thuyết, người trần thuật ở ngôi nhà thứ nhất xuyên suốt ba tác phẩm Cát bụi, Chiều tối và Ba người khác, vẫn là nhân vật từng trải, luôn vận động từ quá khứ đến hiện tại nhờ hồi ức và liên tưởng. , với giọng văn dí dỏm thể hiện được vẻ bàng hoàng, thanh thản trước mọi biến cố…
Bút pháp linh hoạt và phong cách văn xuôi hấp dẫn của Tô Hoài có lẽ xuất phát từ suy nghĩ đúng đắn của ông: Đời như văn.” – Nhà phê bình văn học Đỗ Hải Ninh.