Dẫn liệu là một thuật toán được nhắc tới rất nhiều trong kiểm toán, công việc kiểm toán đó là kiểm tra và đưa ra những đánh giá về kiểm soát nội bộ. đây là chu trình xảy ra đối với việc kiểm soát trong kì khi đã có những thửu nghiệm cơ bản đã có từ trước đó. Vậy cơ sở dẫn liệu là gì? Ý nghĩa của cơ sở dẫn liệu trong kiểm toán như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Cơ sở dẫn liệu là gì?
Cơ sở dẫn liệu trong tiếng Anh là Management Assertions.
Định nghĩa về cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính: “Là các khẳng định của Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán một cách trực tiếp hoặc dưới hình thức khác về các khoản mục và thông tin trình bày trong báo cáo tài chính và được kiểm toán viên sử dụng để xem xét các loại sai sót có thể xảy ra;”
Các loại cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính (BCTC) bao gồm:
+ Hiện hữu: một tài sản hay một khoản nợ phản ánh trên BCTC phải thực tế tồn tại (có thực) vào thời điểm lập báo cáo
+ Phát sinh đây được hiểu là một nghiệp vụ hay một sự kiện đã ghi chép thì phải đã xảy ra và có liên quan đến đơn vị trong thời kỳ xem xét. Đơn vị không được khai khống.
+ Đầy đủ: toàn bộ tài sản, các khoản nợ, nghiệp vụ hay giao dịch đã xảy ra có liên quan đến BCTC phải được ghi chép hết các sự kiện liên quan. Đơn vị không được phép khai thiếu
+ Quyền và nghĩa vụ: một tài sản hay một khoản nợ phản ánh trên BCTC thì đơn vị phải có quyền sở hữu và hoặc có trách nhiệm hoàn trả tại thời điểm lập báo cáo
+ Đánh giá: một tài sản hay một khoản nợ được ghi chép theo giá trị thích hợp trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được thừa nhận)
+ Chính xác: một nghiệp vụ hay một sự kiện được ghi chép theo đúng giá trị của nó, doanh thu hay chi phí được ghi nhận đúng kỳ, đúng khoản mục và đúng về toán học
+ Trình bày và công bố: các khoản mục được phân loại, diễn đạt và công bố phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận).
Ví dụ trong khi kiểm toán các giao dịch bán hàng, kiểm toán viên sẽ dựa theo từng cơ sở dẫn liệu để thiết kế các mục tiêu kiểm toán chung và mục tiêu kiểm toán đặc thù như sau:
Cơ sở dẫn liệu | Mục tiêu kiểm toán chung | Mục tiêu kiểm toán đặc thù |
Tính có thật | Kiểm toán tính có thật | Các giao dịch được ghi nhận đối với khách hàng có thật |
Tính đầy đủ | Kiểm toán tính đầy đủ | Các giao dịch đã xảy ra đã được ghi nhận |
Tính chính xác | Kiểm toán tính chính xác, cộng và chuyển sổ | Doanh thu đúng so với giá trị bán hàng được, được xuất hóa đơn và phản ánh chính xác Các giao dịch bán hàng được nhập liệu và tổng hợp chính xác trong các sổ ghi nhận tương ứng. |
Tính phân loại | Kiểm toán tính phân loại | Các giao dịch được ghi nhận đúng tài khoản |
Tính đúng kỳ | Kiểm toán liên quan đến thời gian ghi nhận giao dịch | Các giao dịch bán hàng được ghi nhận vào đúng ngày phát sinh. |
2. Các căn cứ để giải trình một cơ sở dẫn liệu:
Để khẳng định rằng báo cáo tài chính tuân thủ khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, Ban Giám đốc cần khẳng định chính thức hoặc ngầm định các cơ sở dẫn liệu về việc ghi nhận, đo lường, trình bày và công bố các thành phần của báo cáo tài chính và các thuyết minh liên quan. Như vậy ta thấy cơ sở dẫn liệu là các ý kiến và khẳn định từ ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán một cách trực tiếp hoặc dưới hình thức khác về các khoản mục và thông tin trình bày trong báo cáo tài chính và được kiểm toán viên sử dụng để xem xét các loại sai sót có thể xảy ra và từ đó cơ sở dẫn liệu bao gồm ba nhóm:
– Cơ sở dẫn liệu với nhóm giao dịch và sự kiện trong kỳ được kiểm toán.
– Cơ sở dẫn liệu đối với các số dư các tài khoản tại thời điểm cuối kỳ.
– Cơ sở dẫn liệu về việc trình bày và công bố
Sự hiện hữu: Tài sản, nguồn vốn chủ sở hữu hoặc nợ phải trả trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo phải thực tế tồn tại tại thời điểm đó.
Quyền và nghĩa vụ: Doanh nghiệp có quyền sở hữu hầu hết tài sản được phản ánh trên báo cáo tài chính phải thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, trừ một số loại tài sản mà doanh nghiệp có quyền kiểm soát lâu dài và đáp ứng các chuẩn mực kiểm toán liên qua. Với mọi khoản nợ được phản ánh thì doanh nghiệp phải thực sự có nghĩa vụ trả nợ.
Sự phát sinh: Một nghiệp vụ hoặc sự kiện kinh tế được ghi chép thì phải thực sự đã phát sinh và liên quan đến kỳ báo cáo.
Sự tính toán và đánh giá: Các sự kiện và nghiệp vụ kinh tế phải được ghi nhận theo giá trị thích hợp trên cơ sở nguyên tắc kế toán, chuẩn mực kế toán hoặc được chấp nhận phổ biến. Các số liệu và phép toán khi thực hiện phải chính xác về mặt toán học và không có sai sót
Sự phân loại và hạch toán: Toàn bộ tài sản, khoản nợ, doanh thu, chi phí, nghiệp vụ hay giao dịch đã xảy ra có liên quan tới kì báo cáo phải được ghi chép đầy đủ và phân loại một cách đúng đắn theo yêu cầu của các chuẩn mực kế toán. Các nghiệp vụ mà sự kiện kinh tế phát sinh phải được ghi nhận theo kế toán dồn tích.
Tổng hợp và công bố: Số liệu cộng dồn trên tài khoản và sổ kế toán phải được tính toán một cách chính xác. Các chỉ tiêu, bộ phận và khoản mục trên báo cáo tài chính phải được xác định, trình bày và công bố theo đúng yêu cầu của chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành.
3. Các loại cơ sở dẫn liệu:
Các cơ sở dẫn liệu này tập trung vào các thông tin phản ánh trên Bảng cân đối kế toán, tập trung vào số dư cuối kì, bao gồm:
+ Existence – tính tồn tại: Ban giám đốc cam kết Tài sản, nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả được phản ánh trên Báo cáo tài chính của doanh nghiệp thực sự tồn tại vào thời điểm lập báo cáo. Ví dụ, khoản mục hàng tồn kho trên báo cáo tài chính vào ngày 31/12/20X9 là 600 triệu, thì Ban giám đốc cam kết là tại ngày đó, trong kho của Doanh nghiệp thực sự có lượng hàng tồn kho có giá trị tương ứng với 600 triệu đồng.
+ Completeness – tính đầy đủ: Ban giám đốc cam kết đã phản ánh toàn bộ các tài sản cũng như các khoản nợ, nguồn vốn của doanh nghiệp lên Báo cáo tài chính.
+ Right and Obligation – Quyền và nghĩa vụ: Ban giám đốc đảm bảo doanh nghiệp có quyền sở hữu hay kiểm soát liên quan đến các Tài sản cũng như có nghĩa vụ thanh toán đối với khoản nợ của doanh nghiệp.
+ Valuation and allocation – tính giá và phân bổ: Ban giám đốc khẳng định rằng các khoản mục đã được phản ánh vào báo cáo tài chính với giá trị chính xác, đồng thời các thay đổi trong việc định giá và phân bổ đã ghi nhận đúng cũng như đã được thuyết minh một cách đầy đủ.
4. Ý nghĩa của cơ sở dẫn liệu trong kiểm toán:
Như vậy từ các nội dung đưa ra như trên ta thấy các cơ sở dẫn liệu là căn cứ để kiểm toán viên thiết kế các mục tiêu kiểm toán chung và mục tiêu kiểm toán đặc thù bằng việc thực hiện các thủ tục tương ứng. Ví dụ phổ biến nhất là để xác minh tính đầy đủ, kiểm toán viên sẽ đi từ các chứng từ và đối chiếu với sổ sách, trong khi để xác minh tính có thật, kiểm toán viên sẽ đi từ sổ sách và đối chiếu với các chứng từ có liên quan.
Đối với khoản mục tài sản và doanh thu, thông thường doanh nghiệp có xu hướng “làm đẹp” hơn BCTC nên thường được phản ánh cao hơn so với giá trị thực tế. Do đó một số cơ sở dẫn liệu thường bị vi phạm là tính có thật và tính chính xác.
Ngược lại, ta thấu rằng đối với các khoản mục liên quan đến nợ phải trả và chi phí có khả năng nhiều bị phản ánh thấp hơn giá trị đúng, dẫn tới một số cơ sở dẫn liệu bị vi phạm như tính đầy đủ và tính chính xác.
Căn cứ vào bản chất của từng khoản mục, kiểm toán viên sẽ cần thiết kế thủ tục kiểm toán chi tiết phù hợp để đảm bảo thu thập được các bằng chứng đầy đủ và hợp lý.
Tóm lại, về vấn đề này thì theo các cơ sở dẫn liệu là các thông tin của nhà quản lý trình bày lên Báo cáo tài chính đảm bảo rằng những thông tin này cần được trình này một cách chính xác và đầy đủ nhất.