Hiện nay trên thực tế chúng ta thấy có rất nhiều các doanh nghiệp niêm yết thực hiện trả cổ tức bằng cổ phiếu hay còn gọi là cổ phiếu thưởng. Bên cạnh đó thì đa số nhà đầu tư cá nhân hiện vẫn chưa hiểu rõ bản chất tài chính của nghiệp vụ này. Vậy cổ phiếu thưởng là gì? Ý nghĩa của việc phát hành cổ phiếu thưởng?
Mục lục bài viết
1. Cổ phiếu thưởng là gì?
Chắc hẳn chúng ta đã nghe rất nhiều trên thị trường chứng khoán về cổ phiếu thưởng trong tiếng Anh là Bonus shares hay Bonus Stocks. Cổ phiếu thưởng là cổ phiếu tặng thêm được trao cho các cổ đông hiện tại mà không có bất kì chi phí bổ sung nào, dựa trên số cổ phần mà một cổ đông sở hữu và nếu xét về bản chất, đây là các khoản thu nhập tích lũy của công ty không được đưa ra dưới dạng cổ tức, nhưng được chuyển đổi thành cổ phiếu miễn phí.
2. Ý nghĩa của việc phát hành cổ phiếu thưởng:
Như chúng ta thấy thực tế thì trên thị trường hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp đã niêm yết thực hiện chia cổ tức bằng cố phiếu(hay còn gọi cổ phiếu thường) và chia tách cổ phiếu theo các tỷ lệ đang ngày càng được thu hút nhưng nhiều nhà đầu tư vẫn đang chưa hiểu rõ được bản chất tài chính thật sự của các nghiệp vụ trên. Thực chất đây chỉ là nghiệp vụ chia tách cổ phiếu, nó không phát sinh bất kỳ dòng tiền mới nào giúp doanh nghiệp gia tăng nội lực của mình.
Nhìn chung thì cổ phiếu thưởng đóng vai trò trong việc có lợi hay không của chính sách này đối với cổ đông được quyết định bởi sự thành công của kế hoạch đầu tư mới. Thế nên ta thấy nếu kế hoạch này đem lại lợi nhuận cao, lượng tiền đầu tư của cổ đông sẽ được sử dụng hiệu quả, tổng giá trị của công ty sẽ tăng lên và trong trường hợp ngược lại, điều này sẽ có ảnh hưởng không chỉ tới phần cổ phiếu mới được nhận thêm mà cả phần cổ phiếu các cổ đông đã nắm giữ trước đây.
Việc sử dụng thuật ngữ “cổ phiếu thưởng” theo nghĩa thứ hai thực chất là dùng sai. Điều này cũng gây ra rất nhiều tranh cãi, nhất là gần đây, khi Bộ Tài chính quyết định đánh thuế chứng khoán, và “cổ phiếu thưởng” cũng là một trong các hạng mục bị đánh thuế. Nếu hiểu theo nghĩa thứ nhất thì việc đánh thuế là hợp lí, còn hiểu theo nghĩa thứ hai là bất hợp lí.
3. Các trường hợp trả cổ phiếu thưởng:
Có 2 trường hợp trả cổ phiếu thưởng:
Trường hợp 1: Cố phiếu thưởng thưởng cho người có công đóng góp
Đây là việc doanh nghiệp dùng 1 lượng cổ phiếu để thưởng cho bộ phận quản lý, cán bộ công nhân viên, những người có đóng góp lớn cho doanh nghiệp
+ Nguồn cổ phiếu thưởng là cổ phiếu ngân quỹ của doanh nghiệp.
+ Trường hợp này, giá trị sổ sách của công ty không thay đổi. Tỷ lệ sở hữu trong công ty của các thành viên được nhận cổ phiếu thưởng tăng lên; còn tỷ lệ sở hữu của các cổ đông khác giảm xuống. Đây là 1 cách để khuyến khích cán bộ công nhân viên đóng góp nhiều hơn cho doanh nghiệp.
Trường hợp 2: Cổ phiếu thưởng thưởng cho tất cả cổ đông
– Đây là trường hợp nhiều công ty cổ phần ở Việt Nam trong thời gian gần đây hay áp dụng. Đó là việc tất cả các cổ đông của công ty được nhận thêm cổ phiếu mới theo một tỉ lệ nhất định.
Ví dụ: Cổ đông nắm giữ 5 cổ phiếu cũ được sẽ được nhận thêm 1 cổ phiếu mới. Khi đó, nhà đầu tư cần nắm được một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất, công ty không nhận được nguồn vốn góp mới từ phía cổ đông hay từ bất kì nguồn nào, do đó vốn chủ sở hữu của các cổ đông không thay đổi.
Thực chất, đây là việc làm tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận để lại, hay nói cách khác, đây chỉ là việc chuyển đổi giữa các khoản mục trong nguồn vốn cổ đông: từ lợi nhuận để lại sang vốn điều lệ mà không làm thay đổi tổng nguồn vốn cổ đông.
Thứ hai, cổ phiếu được phát thêm cho cổ đông đã làm tăng số lượng cổ phiếu của công ty. Khi số lượng cổ phiếu tăng lên, nguồn vốn chủ sở hữu không đổi, giá trị sổ sách (được tính = Vốn chủ sở hữu / Tổng số cổ phần đang lưu hành trên thị trường) của cổ phiếu sẽ giảm theo tỉ lệ tương ứng. Tỉ lệ sở hữu công ty của mỗi cổ đông trước và sau khi phát hành thêm cổ phiếu là không đổi.
Thứ ba, đây thường là cách các công ty trên thế giới hiện nay trả cổ tức cho cổ đông bằng cổ phiếu (stock dividend) thay vì trả bằng tiền (cash dividend) bởi công ty muốn giữ lại tiền để mở rộng sản xuất kinh doanh hay đầu tư vào dự án mới.
Đây là việc tất cả cổ đông sẽ nhận thêm cổ phiếu mới với tỷ lệ nhất định. Ví dụ: 100:5, tức là cứ nắm giữ 100 cổ phiếu cũ thì cổ đông sẽ nhận thêm 5 cổ phiếu mới.
+ Việc thưởng cổ phiếu thưởng như vậy không làm tăng vốn chủ sở hữu của các cổ đông. Vì về bản chất, đây chỉ là chuyển đổi giữa các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán. Cụ thể là giảm lợi nhuận giữ lại sang tăng vốn điều lệ.
+ Tỷ lệ sở hữu của cổ đông trong công ty không đổi.
+ Cổ phiếu phát hành thêm để thưởng cho cổ đông sẽ làm tăng số lượng cổ phiếu. Vốn CSH không đổi, số lượng cổ phiếu tăng lên, sẽ khiến giá trị sổ sách (Vốn CSH / Số lượng cổ phiếu) giảm tương ứng. Như vậy, cảm giác giá cổ phiếu rẻ đi, giúp nhà đầu tư ít vốn có cơ hội tham gia. Họ sẽ tìm cách mua cổ phiếu trước khi cổ phiếu được chia thưởng, làm tăng cầu cổ phiếu, dẫn đến giá cổ phiếu tăng. Ngay sau ngày chốt danh sách phát hành cổ phiếu thưởng, Sở Giao dịch chứng khoán sẽ điều chỉnh giá tham chiếu của cổ phiếu giảm đi tương ứng. Tài sản của nhà đầu tư trước và ngay sau thời điểm chốt danh sách là không đổi.
Bên cạnh đó ta thấy các nhà đầu tư cần lưu ý rằng, cổ phiếu thưởng nhiều khi được doanh nghiệp sử dụng như một chiêu trò đánh lạc hướng. Không những vậy ban lãnh đạo nhiều doanh nghiệp lợi dụng việc thiếu hiểu biết của cổ đông để che giấu việc công ty đang thiếu hụt dòng tiền mặt để chia cổ tức (hay cố ý để lại quỹ tiền mặt lớn nhằm phục vụ lợi ích cá nhân) bằng việc “thưởng” cổ phiếu cho cổ đông. Khi thị trường tăng giá, chia cổ tức bằng cổ phiếu thường được doanh nghiệp sử dụng và được cổ đông ưa chuộng. Bởi giá cổ phiếu đang tăng mạnh, việc pha loãng khiến thị giá cổ phiếu giảm. Điều này tạo tâm lý tích cực cho nhà đầu tư có nhu cầu giải ngân trong ngắn hạn. Nhà đầu tư cũng kỳ vọng giá cổ phiếu sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn cổ tức tiền mặt.
4. Bản chất của việc chia cổ phiếu thưởng:
Việc phân chia cổ phiếu thưởng bản chất làm không thay đổi về mặt tài chính, kinh doanh mà chỉ thay đổi về mặt báo cáo kế toán tự lợi nhuận chưa được phân phối sang chủ sở hữu. Bản chất của việc chia cổ phiếu thưởng được chia ra như sau:
Đối với các nhà đầu tư:
Đối với nhà phân tích cơ bản hay đầu tư giá trị, việc chia tách cổ phiếu này dường như vô ích. Đây cũng lầ lý do Bershire Hathaway của tỷ phú Warren Buffett chưa bao giờ chia tách hay trả cổ túc bằng số cổ phiếu.
Đối với nhà phân tích kỹ thuật đầu cơ thì có thể tận dụng điều này vì nó có tác động về mặt tâm lý của các nhà đầu tư trong thời gian ngắn hạn. Ví dụ như với những cổ phiếu có giá trị cao việc chia tách sẽ làm gia tăng tính thanh khoản do giá cổ phiếu đã được điêfu chỉnh theo tỷ lệ chia thưởng. Những nhà đầu tư ít vốn sẽ có cơ hội đầu tư khi có cảm giác cổ phiếu đã rẻ đi. Việc cho phép nhiều nhà đầu tư có mức tiền vừa phải sẽ tham gia nhiều hơn, làm tăng cầu trong thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hoạt động không vượt trội thì giá sẽ trở về mức trước khi tăng.
Vì thế, đối với những nhà đầu tư đang sở hữu cổ phiếu hay đang có dự định mua cổ phiếu họ có thể căn cứ vào số cổ tức được trả để tính lãi suất hiện thời bằng cách lấy khoản này chia ra cho cá thị giá cổ phiếu khác. Đây đã được coi là một trong những tiêu chí giúp cho các nhà đầu tư chọn cổ phiếu tốt hơn.
Đối với các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp thường vẫn chọn hình thức chia cổ phiếu. Các doanh nghiệp chia cổ phiếu thưởng để nhằm hỗ trợ cổ động không phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Nhưng cũng có những những doanh nghiệp chọn hình thức này để tăng vốn điều lệ, từ đó tăng năng lực tài chính và có cơ hội tiếp cận khoản vay lớn hơn để thực hiện được các dự án lớn,…