Người Cơ đốc là những người theo chủ nghĩa độc thần, tức là họ tin rằng chỉ có một Đức Chúa Trời duy nhất và Ngài đã tạo ra bầu trời và trái đất. Bản chất của Cơ đốc giáo xoay quanh cuộc sống, cái chết và niềm tin của người Cơ đốc giáo về sự phục sinh của Chúa.
Mục lục bài viết
1. Cơ đốc giáo và biểu tượng của Cơ đốc giáo?
Về khái niệm của Cơ Đốc giáo có rất nhiều cách hiểu khác nhau phụ thuộc vào tín ngưỡng, bản chất… Về cơ bản, mọi người cho rằng, những người theo Cơ Đốc giáo là những người thuộc chủ nghĩa độc thần, tức chỉ theo một Đức thánh duy nhất, là người đã tạo ra bầu trời và trái đất. Chính Chúa, Jesus Christ và Chúa thánh Thần là những người đứng đầu Cơ Đốc giáo. Cơ Đốc giáo vận hành quanh cuộc sống với sự ra đi và niềm tin vào sự phục sinh của Chúa. Những người theo Cơ Đốc giáo tin rằng, Chúa để xin tha tội đã bị đóng đinh trên thập tự giá và Người đã cử con trai mình là Thánh Jesus xuống trần gian.
Biểu tượng cao cả nhất của Cơ Đốc giáo có lẽ là cây thánh giá, đây được xem là hình ảnh liên hệ đến hình thượng đóng đinh của Chúa. Tuy nhiên trước cây thánh giá cao quý ấy, cái neo của tàu biển được coi là biểu tượng của Cơ Đốc giáo, trong khoảng thời gian vào thế kỷ thứ nhất. Cái neo của tàu biển tượng trưng cho niềm hy vọng của những người theo Cơ Đốc giáo vào Chúa, Đức Chúa Trời. Chúa Thánh Thần cũng được biểu tả khác nhau trong các giáo hội như được miêu tả là một con chim bồ câu… Trong nhiều tranh ảnh, Chúa Thánh được vẽ ở hình dáng của một chú chim bồ câu trong tư thế lao xuống với Đức Mẹ.
2. Lịch sử và sự phát triển của Cơ đốc giáo:
Nguồn gốc của Cơ Đốc giáo xuất phát từ hình tượng của Chúa Giê – su – một người Do Thái. Sau khi chúa Giê – su bị đóng đinh ở Judea ở La Mã tầm những năm ba mươi, ba mươi ba sau công nguyên, các môn đồ của Chúa tin rằng Chúa là con của Đức Chúa Trời. Theo truyền thống thì Chúa chết với mong cầu được đền tội và đã sớm sống lại và được tôn cao tại một quốc gia được thành lập bới cha của Chúa là Đức Chúa Trời.Cơ Đốc giáo được truyền đến Phương Tây vào những năm đầu thời kỳ Trung cổ, sau đó suốt thời kỳ này, do thời gian xuất hiện khác nhau nên sự phát triển cũng khác nhau. Hậu quả là đến giữa thập kỷ 50 của những năm 1000, sự chỉ trích đối với Công giáo La Mã ngày càng tăng, và cũng là sự chia giáo của Cơ Đốc giáo ở Phương Tây. Thời kỳ sau – thời kỳ Phục Hưng, Cơ Đốc giáo ngày càng được phát triển một cách mạnh mẽ trên toàn thế giới. Đến thời kỳ Truyền giáo, Hội giáo dành sự chú tâm đặc biệt đến việc tuyên truyền, nổi bật là cuối thế kỷ mười tám đến đầu thế kỷ hai mươi. Bối cảnh thế giới khi đó là những cuộc đấu tranh chiếm đóng thuộc địa càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền giáo. Bên cạnh đó, công nghiệp hóa ngày càng được cải thiện giúp con người có đời sống kinh tế ổn định hơn để chu lo cho đời sống tinh thần, tài trợ cho những người truyền giáo. Và từ đây những hội thánh xuất hiện vòng quanh thế giới. Cho đến ngày nay, Cơ Đốc giáo La Mã và Phương Đông dần gắn kết và ngày càng lớn mạnh, trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất thế giới.
3. Cơ Đốc giáo có phải đạo Tin Lành hay Thiên Chúa giáo?
Cơ Đốc giáo chính là đạo Tin Lành, chỉ khác nhau ở cách gọi. Tuy nhiên Cơ Đốc giáo lại không hoàn toàn là Thiên Chúa giáo. Cơ Đốc giáo và Thiên Chúa giáo có những điểm khác biệt chính sau đây:
Cơ Đốc giáo và tin lành | Thiên Chúa giáo | |
Nguồn gốc | Cơ Đốc giáo được cho là xuất phát từ tỉnh Judea, La Mã nơi mà Chúa Giê – su đã bị đóng đinh để đền tội, gồm Israel, Palestine và Li Băng ngày nay. Và các nghiên cứu, tài liệu về Cơ Đốc giáo được ghi chép từ thế kỷ thứ nhất. | Thiên Chúa giáo cũng có nguồn gốc từ La Mã nhưng từ tỉnh Giuđê và xuất xứ của Thiên Chúa giáo liên quan đến các Tông Đồ, nổi bật là Thánh Phêrô. |
Giáo sĩ và Đức giáo hoàng | Đối với Cơ Đốc giáo, Đức giáo hoàng bị từ chối thẩm quyền một cách tuyệt đối. Trong khi ông được coi là người đầu tiên trong số những người bình đẳng đối với giới chính thống trị. Tuy nhiên cả hai vẫn bị Cơ Đốc giáo chối bỏ quyền uy tối cao. | Trái với Cơ Đốc giáo thì Đức giáo hoàng lại là cơ quan bậc nhất trong Thiên Chúa giáo, là cơ quan đạo đức và tinh thần. Đức giáo hoàng được coi là người thừa kế của Thánh Phêrô và ông không bị coi là sai lầm. |
Quy định | Đối với Cơ đốc giáo, các quy định thay đổi theo các quan điểm khác nhau. | Quy định của Thiên Chúa giáo được ban hành bởi giáo hàng, luật giáo phận và pháp luật Canon. |
Xưng tội | Người theo Cơ Đốc giáo lựa chọn thú nhận tội lỗi của mình một cách trực tiếp với Đức Chúa Trời, chứ không phải qua bất kỳ linh mục nào khác, linh mục không có vai trò làm nối cầu nguyện cho con người với Thiên Chúa. | Đối với Thiên Chúa giáo, sự tồn tại của người xá tội thường thông qua linh mục, những người có tội sẽ đến gặp linh mục |
Ngôn ngữ | Ngôn ngữ của Cơ Đốc giáo khá đa dạng, gồm tiếng Aramaic, tiếng Hebrew và tiếng Hy Lạp. | Khởi đầu, ngôn ngữ của Thiên Chúa gồm tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp, nhưng hiện nay, đối với các tín đồ Thiên Chúa giáo, ngôn ngữ phổ biến của họ là tiếng La Tinh. |
Sự thờ cúng của Đức Maria và các Thánh | Hầu hết người thuộc Cơ Đốc giáo đều trực tiếp cầu nguyện với Đức Chúa Trời nên sẽ không quá quan trọng việc thờ phụng Đức Maria và các Thánh . | Người thuộc Thiên Chúa giáo thì tin vào các Thánh nên họ sẽ thờ phụng cả Đức Maria và các Thánh. |
4. Niềm tin của Cơ Đốc giáo:
Đối với những tín đồ Cơ Đốc giáo, niềm tin cơ bản nhất có lẽ là niềm tin vào sự ra đi để cứu rỗi nhân dân của chúa giê – su, niềm tin rằng Chúa chịu chôn sống, đính người trên thánh giá để đổi lấy sự cứu rỗi cho những người tin Ngài. Người theo Cơ Đốc giáo hơi kém thực tế, họ tin vào và để tâm vào những mối quan hệ mắc xích hơn là những nghi lễ. Khác với một số tôn giáo khác, người Cơ Đốc giáo không theo danh mục những gì phải làm hay những gì không được làm mà tập trung vào Đức Chúa Trời.
Trên là niềm tin chính nhất của Cơ Đốc giáo, ngoài ra người Cơ Đốc giáo còn rất nhiều niềm tin khác:
– Người Cơ Đốc giáo có niềm tin vào sự soi đường dẫn lối của Kinh thánh, những lời của Chúa, những giáo huấn của Chúa cũng chính là những truyền đạt từ đức tin. Các thánh hội của Cơ Đốc giáo tin vào sự tồn tại của Đức Chúa Trời trông các thế hệ Đức Chúa.
– Con người đã tạo nên cách gì đó đặc biệt để có thể kết nối với Đức Chúa Trời, nhưng mọi thứ bởi ngăn cản bởi tội lỗi. Đây chính là một trong các niềm tin của Hội Cơ Đốc giáo. Người Cơ Đốc giáo truyền lại rằng, Chúa xuống trần gian với một sự trọn vẹn về cả thần tính và nhân tính, và sau khi Chúa Giê su chết trên chiếc thập tự giá, chấp nhận chôn trong hang mộ thì ba ngày sau Ngài đã sống lại, từ đó Ngày hiện hữu bên Đức Chúa Cha để mang lại sự bình an, cầu nguyện cho những tín đồ Cơ Đốc giáo. Và đây cũng là mấu chốt giúp con người xóa mọi tội lỗi và hàn gắn lại mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và Chúa.
– Với người Cơ Đốc giáo, niềm tin hoàn toàn vào công lao của Chúa Giê – su sẽ đem lại sự thanh thản, cứu rỗi và được an nhiên sau khi chết. Con người sẽ được giải cứu vì tin rằng sự sống của Chúa đã thay thế cho mình và thay mình trả nợ xong những tội lỗi ở trần gian.
– Với Cơ Đốc giáo, khái niệm sự cứu rỗi được hiểu là sự giải phóng, giải thoát khỏi những tội lỗi nơi trần thế và việc được thả tự do để bay theo những điều đúng đắn nơi Đức Chúa Trời đã chỉ dạy. Sau khi giải thoát khỏi những tội lỗi, thay vì làm nô lệ cho những tội lỗi đó, chúng ta trở thành những nô lệ của Đức Chúa, thế cũng có nghĩa là khi vẫn còn tồn tại trên đất này thì trong những thân thể tội lỗi của mình, người Cơ Đốc giáo sẽ luôn phải đấu tranh với những tội lỗi. Những tội lỗi này chỉ được xóa bỏ, chuộc tội và chiến thắng khi những tín đồ Cơ Đốc giáo biết lắng nghe, học tập và áp dụng những lời dạy từ Đức Chúa Trời. Họ sẽ được Đức Chúa Trời chỉ dạy trong mọi điều của cuộc sống, và được điều khiển bởi Đức Thánh Linh.
5. Các loại hình Cơ Đốc giáo:
Một số loại hình cơ bản của Cơ Đốc giáo gồm:
– Baptist
– Episcopalian
– Nhà truyền giáo
– Giám lý
– Trưởng lão
– Ngũ tuần / Đặc sủng
– Lutheran
– Anh giáo
– Truyền giáo
– Nhà thờ Nazarene
– Mennonite
– Khoa học Cơ đốc giáo