Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hiểu là sự thay đổi, sự biến đổi về cơ cấu các ngành trong khu vực nông nghiệp, các nguồn tăng trưởng nông nghiệp trong quá khứ khó có thể được nhân rộng trong tương lai. Đặc trưng và các giai đoạn?
Sau 25 năm đổi mới, nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội. Sản xuất nông nghiệp phát triển bất chấp biến động của thị trường, thiên tai, dịch bệnh. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấn kinh tế nông nghiệp vẫn là rất cần thiết đối với những đất nước nông nghiệp như Việt Nam.
Mục lục bài viết
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là gì?
– Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (Agricultural Restructuring) được hiểu là sự thay đổi, sự biến đổi về cơ cấu các ngành trong khu vực nông nghiệp, các nguồn tăng trưởng nông nghiệp trong quá khứ khó có thể được nhân rộng trong tương lai. Ngành này phải đối mặt với sự cạnh tranh trong nước ngày càng tăng từ các thành phố, ngành công nghiệp và dịch vụ về lao động, đất đai và nước. Chi phí gia tăng đang bắt đầu kìm hãm khả năng cạnh tranh quốc tế của ngành với tư cách là nhà sản xuất “chi phí thấp”. Và, việc sử dụng quá nhiều tài nguyên nước và biển là không bền vững. Nông nghiệp Việt Nam sẽ cần tạo ra “nhiều hơn từ ít hơn”. Có nghĩa là, nó cần tạo ra nhiều giá trị kinh tế hơn cũng như phúc lợi của nông dân và người tiêu dùng bằng cách sử dụng ít tài nguyên vật chất, con người và các nguồn lực khác hơn. Và, nó cần phải bắt đầu cạnh tranh trên cơ sở chất lượng, tuân thủ tiêu chuẩn và độ tin cậy.
– Các quá trình này đã dẫn đến nhu cầu ngày càng tăng đối với lao động có mức lương thấp hơn và sự thiệt thòi về kinh tế – xã hội của các cộng đồng nông thôn, làm giảm sức hấp dẫn của địa phương đối với nông nghiệp và sinh kế nông thôn. Việc cơ cấu lại lao động nông nghiệp đã dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu nhân lực của nước này, với sự chuyển dịch đáng kể từ lao động gia đình sang lao động làm công ăn lương ở nước ngoài. Trong khuôn khổ đó, cần đánh giá sự hiện diện nhất quán và ngày càng tăng của người nhập cư ở các khu vực nông thôn và khu vực nông nghiệp. Trọng tâm là các quốc gia EUMed (Hy Lạp, Tây Ban Nha và Ý), nơi trình bày một số đặc điểm và động lực học cụ thể và mang tính đặc trưng.
2. Đặc trưng và các giai đoạn:
* Đặc trưng: các ưu tiên chuyển dịch cơ cấu chính cần được xem xét như sau: Chuyển từ những mặt hàng nông sản có giá trị thấp và sức cạnh tranh sang những mặt hàng có giá trị và sức cạnh tranh cao
– Bảo vệ đất nông nghiệp nhưng cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất linh hoạt giữa trồng lúa và trồng các loại cây khác như cây làm thức ăn chăn nuôi (như khoai, ngô, sắn), rau quả, nuôi trồng thủy sản và các hoạt động sản xuất có giá trị cao hơn. Áp dụng thực hành sản xuất lúa bền vững nhằm giảm lạm dụng hóa chất, tiết kiệm nước, cơ giới hóa trong khâu làm đất, thu hoạch để nâng cao chất lượng sản phẩm đồng bộ.
– Xây dựng quy hoạch sử dụng đất và ổn định diện tích đất trồng các loại cây chuyên canh (cà phê, cao su, chè, tiêu, điều) có sức cạnh tranh cao và có tiềm năng thị trường ở các vùng thích hợp. Áp dụng các biện pháp canh tác bền vững và thâm canh, phát triển liên kết chuỗi giá trị và đảm bảo chia sẻ lợi ích bình đẳng giữa các bên liên quan trong chuỗi giá trị.
– Phát triển các vùng sản xuất rau quả chuyên canh có đủ điều kiện giám sát tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
– Xây dựng quy hoạch sử dụng đất để sản xuất chăn nuôi (kèm theo sản xuất thức ăn chăn nuôi). Chuyển chăn nuôi từ vùng có mật độ dân cư thấp sang vùng chuyên canh xa thành phố, khu dân cư. Phát triển chăn nuôi dựa trên lợi thế đặc thù của từng vùng sinh thái theo hai hướng: (i) đẩy mạnh sản xuất quy mô lớn, thâm canh theo vùng chuyên canh, công nghiệp ứng dụng công nghệ cao; (ii) duy trì chăn nuôi hộ gia đình với khuyến khích áp dụng công nghệ và bảo vệ an toàn sinh học. Khuyến khích liên kết giữa các bên liên quan trong chuỗi giá trị để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả và giá trị gia tăng. Tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh cùng với cải thiện dịch vụ thú y và bảo vệ an toàn sinh học. Thúc đẩy các mô hình sản xuất hợp vệ sinh với công nghệ cao, quản lý hiệu quả chất thải gây ô nhiễm.
– Tăng diện tích đất rừng sản xuất, giảm diện tích đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Nâng cao giá trị sản xuất lâm nghiệp, nâng cao năng lực và hiệu quả bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, ứng phó hiệu quả với tác động của biến đổi khí hậu và góp phần tích cực cải thiện sinh kế của người dân miền núi. Phát triển các loại lâm sản thâm canh có lợi thế so sánh ở các vùng phù hợp, hình thành các vùng sản xuất nguyên liệu chuyên canh quy mô vừa và lớn, đáp ứng tiêu chí bền vững và cung cấp gỗ nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp.
– Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng hỗ trợ nuôi trồng thủy sản thương phẩm tập trung, đầu tư hệ thống giống thủy sản, hệ thống quan trắc và cảnh báo môi trường, giám sát dịch bệnh. Tăng cường đầu tư các dự án bến cá, âu thuyền, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu thuyền của ngư dân. Tìm kiếm đầu tư tư nhân và / hoặc đồng quản lý trong các bến cảng đánh cá, bãi đáp và cơ sở hạ tầng tiếp thị liên quan.
– Áp dụng các phương pháp tiếp cận quy hoạch nông nghiệp, hỗ trợ quản lý sử dụng đất linh hoạt hơn gắn với các cơ hội thị trường phát triển hơn là sử dụng các biện pháp hành chính.
– Nông nghiệp và phát triển nông thôn đại diện cho các lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế, xã hội cũng như hệ sinh thái của các nước Châu Âu-Địa Trung Hải. Mặc dù vậy, những thay đổi và thách thức quan trọng đã định hình lại sản xuất lương thực, quản lý tài nguyên thiên nhiên cũng như sinh kế nông thôn trong những thập kỷ gần đây trong khu vực.
– Nông nghiệp và phát triển nông thôn đại diện cho các lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế, xã hội cũng như hệ sinh thái của các nước Châu Âu-Địa Trung Hải. Mặc dù vậy, những thay đổi và thách thức quan trọng đã định hình lại sản xuất lương thực, quản lý tài nguyên thiên nhiên cũng như sinh kế nông thôn trong những thập kỷ gần đây trong khu vực.
* Các giai đoạn:
– Các quá trình khác biệt nhưng đan xen chính bao gồm: (i) Hiện đại hóa nông nghiệp và phân cực hóa; (ii) Tái cấu trúc chuỗi nông sản trên thị trường toàn cầu; (iii) Việc thể chế hóa thế giới nông nghiệp, bao gồm vai trò của Chính sách nông nghiệp chung (CAP).
– Cùng với tốc độ tăng trưởng nông nghiệp liên tục ở mức 3,8% / năm, lượng lương thực cung cấp của cả nước đã được cải thiện đáng kể từ 445 lên 513 kg / người / năm trong giai đoạn 2000-2010. Về cơ bản, Việt Nam đã khắc phục được nạn đói trầm trọng của thời kỳ hậu chiến và đạt được khả năng tự túc lương thực ở cấp quốc gia. Vì nông nghiệp vẫn là nguồn thu nhập và việc làm chính cho 70% dân số Việt Nam, tăng trưởng nông nghiệp và an ninh lương thực đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thực hiện thành công công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 58,1% năm 1992 xuống còn 12,6% năm 2010, tốc độ giảm đáng kể hơn 2% / năm.
– So với các nước láng giềng, giá nông sản, nhất là giá lương thực, thực phẩm của Việt Nam được duy trì ở mức thấp, giá nhân công thấp đã giúp Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Bên cạnh đó, xuất khẩu nông sản liên tục tăng trưởng, Việt Nam trở thành một thị trường quan trọng trên thị trường quốc tế và khu vực đối với các mặt hàng như gạo, cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, sản phẩm gỗ và thủy sản. Năm 2012, xuất khẩu nông sản đạt mức kỷ lục 27,5 tỷ đô la Mỹ. Nông nghiệp là ngành duy nhất có thặng dư xuất khẩu ròng tăng trưởng ổn định, ngay cả trong thời điểm kinh tế trì trệ. Thực tế, thặng dư này đã góp phần quan trọng vào việc cân bằng nhập siêu quốc gia.
– Sau một thời gian tăng trưởng nhanh chóng, lĩnh vực này đã bắt đầu chậm lại đáng kể. Tăng trưởng GDP nông nghiệp đã giảm từ 4,5% năm 1995-2000 xuống 3,8% năm 2000-2005, 3,4% năm 2006-2011 và chỉ còn 2,7% năm 2012. Thay đổi cơ cấu cây trồng diễn ra khá chậm. Sản xuất lương thực, nhất là lúa gạo, giá trị thấp vẫn chiếm 40% tổng sản lượng. Tăng trưởng sản xuất rau quả có giá trị cao và nhu cầu tiềm năng bị hạn chế do quy mô trang trại manh mún, chất lượng không đồng bộ và tiêu chuẩn vệ sinh thấp. Tăng trưởng của vật nuôi không ổn định do những hạn chế về nguồn cung cấp thức ăn và kiểm soát dịch bệnh. Ngoài những hạn chế về dịch bệnh và hạn chế tiếp cận thức ăn nuôi trồng thủy sản, tăng trưởng thủy sản cũng không ổn định với ngày càng nhiều trường hợp bị các đối tác thương mại từ chối lô hàng do có chứa các chất độc hại, sản phẩm bị hư hỏng, dán nhãn sai hoặc các lý do khác.
Sau thời kỳ bùng nổ cải cách kinh tế, phần lớn sự tăng trưởng đã diễn ra thông qua sự gia tăng diện tích gieo trồng (bao gồm cả diện tích canh tác và cường độ cây trồng) và sử dụng nhiều hơn các nguyên liệu đầu vào và tài nguyên thiên nhiên với hạn chế về đổi mới công nghệ và thể chế kể từ năm 1995. Tương đối “chất lượng tăng trưởng” thấp được biểu hiện bằng mức độ thất thoát sau thu hoạch cao, chất lượng sản phẩm lẫn lộn hoặc không chắc chắn hoặc an toàn thực phẩm, tạo ra giá trị thấp.
– Tuy nhiên, lập trường chính sách tập trung vào an ninh lương thực và thúc đẩy nguồn cung của sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó, những nỗ lực chuyển đổi cơ cấu lâu dài còn hạn chế về đa dạng hóa và thương mại hóa theo hướng cây trồng có giá trị cao với nhu cầu ngày càng cao (như chăn nuôi, thủy sản cùng với thức ăn chăn nuôi, rau quả, gỗ và đồ gỗ), chế biến nông sản. công nghiệp, an toàn thực phẩm và kiểm tra chất lượng, cơ sở thương mại, công nghệ nông nghiệp và đổi mới. Do đó, các vấn đề ngắn hạn xảy ra thường xuyên hơn và chi phối quá trình hoạch định chính sách trong nông nghiệp. Do đó, các nhà hoạch định chính sách hầu hết chú ý đến phản ứng ngắn hạn để giải cứu ngành khỏi thiên tai, dịch bệnh, mất cân đối cung cầu và bất ổn giá cả.
– Trước tình hình hết sức gay cấn này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN & PTNT) đã chủ động chuẩn bị Đề án tái cơ cấu ngành, theo tầm nhìn tái cơ cấu nền kinh tế như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Bộ NN & PTNT là Bộ đầu tiên trình đề án tái cơ cấu đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 899 / QĐ-TTg ngày 10 tháng 6 năm 2013. Mục tiêu chính của tái cơ cấu nông nghiệp là phát triển kinh tế nông thôn đa dạng, sôi động hơn với nền nông nghiệp bền vững. tăng trưởng, tạo ra giá trị cao, an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và thu nhập của nông dân, nông nghiệp thâm dụng công nghệ.
– Quá trình tái cơ cấu nông nghiệp do chính phủ New Zealand bắt tay vào giữa những năm 1980 đã dẫn đến một thời kỳ khó khăn về tài chính đối với nhiều nông dân của quốc gia này. Không có gì lạ khi các gia đình phải điều chỉnh các chiến lược điều chỉnh lớn để duy trì khả năng tồn tại của doanh nghiệp vào thời điểm này. Dựa trên một nghiên cứu điển hình chi tiết về các phản ứng ở cấp độ trang trại ở một địa phương nông thôn nhỏ, bài báo này lập luận rằng các điều chỉnh trang trại được áp dụng trong và kể từ thời kỳ này đã thay đổi đặc điểm của nông nghiệp gia đình trong khu vực theo những cách cơ bản.
– Sự thay đổi đó thể hiện rõ ràng trong sự không đồng nhất ngày càng tăng của cấu trúc trang trại, và sự thay đổi các mục tiêu canh tác và bố trí lao động hộ gia đình, cùng với sự phát triển của các chuẩn mực văn hóa địa phương.Những chuyển đổi này không chỉ đặt ra những câu hỏi quan trọng về cấu trúc tương lai và tính bền vững của chăn nuôi gia đình trong khu vực, mà còn gợi ý cho việc xem xét lại khái niệm về đơn vị trang trại gia đình khi các mối liên kết truyền thống giữa doanh nghiệp trang trại, hộ gia đình và tài sản bị suy yếu.