Chính trị có sự liên quan mật thiết đến quyền lợi của giai cấp và của nhà nước. Chính trị sẽ chỉ tồn tại khi nào mà còn tồn tại giai cấp và còn nhà nước. Vậy chuẩn mực chính trị là gì? Phân loại chuẩn mực chính trị? Mối quan hệ giữa chuẩn mực chính trị và pháp luật?
Mục lục bài viết
1. Chuẩn mực chính trị là gì?
Cùng với sự ra đời và sự phát triển của tư tưởng dân chủ, nhất là cùng với những cuộc cách mạng dân chủ, chính trị đã dần dần trở thành công việc của đông đảo những tầng lớp nhân dân. Trong những chính thể dân chủ, tất cả các công dân sẽ đều có quyền tham gia vào đời sống chính trị; cùng với đó, mức độ về tham gia như thế nào sẽ lại phụ thuộc vào những điều kiện về kinh tế, về văn hóa, về xã hội, về tư tưởng của các công dân. Sự tham gia vào chính trị sẽ chỉ mang các tính chất thật sự trong chính thể mà có nền dân chủ thật sự và sẽ chỉ là hình thức ở trong các chính thể mà dân chủ chỉ mang tính hình thức.
Khi các giai cấp, các đảng phái, các nhóm xã hội khác nhau mà tham gia vào đời sống chính trị của xã hội dưới các dạng hoạt động của chính trị thì mục đích tối thượng của nó chính là tìm mọi cách đế nắm được các quyền lực chính trị, qua đó, sẽ áp đặt ý chí của các giai cấp mình lên những lĩnh vực khác nhau của xã hội. Tuy nhiên, những quyền lực chính trị sẽ không phải là thứ mà có thể ban phát, chia cho tất cả những giai cấp, đảng phái. Theo quan điểm của mácxít, quyền lực chính trị là có cơ sở xã hội của nó là quyền lực kinh tế. Giai cấp thống trị về mặt kinh tế mới thực sự chính là giai cấp cầm quyền; bởi lẽ là, sự sở hữu các phương tiện sản xuất chủ yếu sẽ quyết định sự phân phối về quyền lực chính trị.
Chuẩn mực chính trị chính là hệ thống những quy tắc, những yêu cầu được xác lập nhằm để điều tiết, để điều hoà mối quan hệ chính trị – quyền lực giữa những giai cấp, đảng phái chính trị, những tập hợp chính trị khác nhau ở trong một xã hội nhất định hoặc là xác lập mối quan hệ chính trị, bang giao giữa những nhà nước với nhau.
2. Phân loại chuẩn mực chính trị:
Chuẩn mực chính trị bao gồm có hai loại: chuẩn mực chính trị đối nội và chuẩn mực chính trị đối ngoại
2.1. Chuẩn mực chính trị đối nội:
Đây là tập hợp những quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi mà được xác lập nhằm để điều tiết, điều hòa về mối quan hệ chính trị – quyền lực giữa những giai cấp, đảng phái chính trị, những tập hợp chính trị ở trong phạm vi nội bộ của một quốc gia (hướng vào bên trong). Nó sẽ giữ vai trò tạo dựng và duy trì về sự cân bằng tương đối ở trong cán cân cơ cấu quyền lực chính trị của mỗi đất nước, bảo đảm được sự ổn định chính trị, môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
2.2. Chuẩn mực chính trị đối ngoại:
Đây là tập hợp các nguyên tắc ngoại giao, những quy tắc giao tiếp, ứng xử quốc tế, các điều ước quốc tế, các hiệp ước, các hiệp định được kí kết giữa những nhà nước nhằm để xác lập mối quan hệ chính trị – ngoại giao giữa những nhà nước hoặc là các nhóm nhà nước với nhau (hướng ra bên ngoài). Nếu chuẩn mực chính trị đối ngoại mà xác lập mối quan hệ chính trị giữa một nhà nước này với lại một nhà nước khác thì đó sẽ là quan hệ chính trị song phương, còn nếu như nó xác lập mối quan hệ chính trị giữa một nhà nước với lại một nhóm các nhà nước hoặc là giữa các nhóm nhà nước với nhau thì đó sẽ là quan hệ chính trị đa phương.
3. Mối quan hệ giữa chuẩn mực chính trị và pháp luật:
3.1. Trong hình thành, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước:
Bộ máy nhà nước chính là toàn bộ các hệ thống những cơ quan từ trung ương đến địa phương bao gồm có: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp…là một thiết chế phức tạp từ nhiều các bộ phận cấu thành. Để bộ máy nhà nước được hoạt động một cách có hiệu quả thì đòi hỏi phải xác định được rõ mối quan hệ giữa chúng đúng với các chức năng, các nhiệm vụ và thẩm quyền trách nhiệm của từng loại cơ quan. Đồng thời cũng sẽ phải xác định rõ về mối quan hệ giữa chúng phải có các phương pháp tổ chức hoạt động sao cho phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ ở trong quá trình thiết lập và thực hiện quyền lực của nhà nước. Tất cả những điều đó sẽ chỉ có thể thực hiện được ở trên cơ sở vững chắc của các quy định của pháp luật. Khi mà một hệ thống những quy phạm pháp luật về tổ chức mà chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, chưa phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc thực hiện xác lập và hoạt động của bộ máy nhà nước thì sẽ dễ dẫn đến các tình trạng trùng lặp và có sự chồng chéo, thực hiện không đúng các chức năng giữa những cơ quan trong bộ máy nhà nước. Pháp luật còn đã quy định rõ ràng về nhiệm vụ, về quyền hạn, về trách nhiệm từng cơ quan và của những cá nhân trong bộ máy nhà nước.
Ngược lại, thì bộ máy nhà nước cũng sẽ có sự tác động trực tiếp đến pháp luật. Một bộ máy nhà nước mà hoàn chỉnh và đại diện cho các giai cấp tiến bộ ở trong xã hội sẽ đưa ra được về hệ thống pháp luật sao cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội chung của cả đất nước. Từ đó, pháp luật sẽ trở nên tiến bộ và thể hiện được đúng vị trí, vai trò của mình. Ví dụ như là sau những cuộc cách mạng tư sản, thì với tư cách là một lực lương tiến bộ ở trong xã hội, giai cấp tư sản đã lên để nắm quyền và ban hành về hệ thống pháp luật có sự tiến bộ phục vụ cho các lợi ích của toàn nhân dân lao động có thể kể đến là các bản Hiến pháp của các nước như Mỹ, Pháp…Tuy nhiên là, khi đến với chế độ đế quốc của tư bản chủ nghĩa, với sự lớn mạnh của chính giai cấp công nhân và toàn nhân dân lao động, thì hệ thống pháp luật của những nước tư sản cũng đã đi sâu vào bảo vệ các lợi ích của giai cấp tư sản thế nên pháp luật cũng đã bị làm mất tính tích cực vốn có của nó ban đầu.
3.2. Trong quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia:
Pháp luật luôn là một môi trường ổn định cho việc thiết lập những mối quan hệ ngoại giao giữa những quốc gia với nhau. Tuy nhiên là, sự phát triển của quan hệ ngoại giao cũng sẽ phải đòi hỏi ở pháp luật của những nước có sự thay đổi sao cho là phù hợp với từng thời kì phát triển của từng quốc gia. Ví dụ như, ở nước ta vào thời kì trước đổi mới, Đảng và Nhà nước ta cũng có thực hiện chính sách ngoại giao khép kín. Nước ta cũng chỉ thực hiện về quan hệ ngoại giao, kinh tế, chính trị với những nước mà có nền chính trị xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật của nước ta đã ngăn cấm những hoạt động đầu tư của tư bản nước ngoài vào. Ở trong thời đại mở cửa và hội nhập quốc tế như thời buổi hiện nay thì điều đó sẽ không còn phù hợp nữa. Đường lối về ngoại giao của nước ta hiện nay cũng đã có sự thay đổi căn bản. Theo đó, mà chúng ta đã đặt về quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia và các vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biệt là vào 11/2007 Việt Nam đã tham gia và đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Điều này cũng đã đòi hỏi pháp luật của chúng ta cũng sẽ phải có những thay đổi sao cho phù hợp với xu thế chung. Đó chính là sự thay đổi thể hiện ở trong các Luật Đầu tư, Luật Thương Mại… Đặc biệt là, Nhà nước ta cũng đã có nhiều chính sách nhằm để thu hút nguồn vốn đầu tư ở nước ngoài như tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng, giảm những loại thuế, rút gọn những thủ tục… Những chính sách đó cũng đã được thể hiện tập trung ở trong pháp luật Việt Nam hiện hành.
3.3. Trong tư tưởng đường lối chính sách của giai cấp thống trị:
Mối liên hệ giữa chính trị và pháp luật còn được thể hiện tập trung nhất ở trong các quan hệ về đường lối chính sách của đảng cầm quyền với lại pháp luật của nhà nước. Pháp luật cũng sẽ thể chế hóa những đường lối chính sách của đảng, có nghĩa là làm cho những nội dung văn kiện nghị quyết của đảng ta được phát triển trở thành một ý chí của nhà nước. Những đường lối về chính sách của Đảng có một vai trò quan trọng ở trong việc chỉ đạo về các nội dung và các phương hướng phát triển của pháp luật. Sự thay đổi ở trong đường lối chính sách của Đảng ta cũng dẫn đến sự thay đổi trong pháp luật.