Chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu là gì? Phân tích ưu nhược điểm của chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu?
Cuộc cách mạng công nghiệp có thể được coi là nguồn gốc của sự phân hóa ngày càng tăng trong cuộc sống tiêu chuẩn giữa các nước tiên tiến và các quốc gia phát triển. Sự khác biệt đáng kinh ngạc trong điều kiện kinh tế giữa các nhóm này các quốc gia, thường được đo lường bằng GDP bình quân đầu người, có thường được giải thích về việc thiếu công nghiệp hóa. Sự liên kết của kinh tế sự thịnh vượng và mức độ công nghiệp hóa đã được được chứng minh bởi nhiều cuộc điều tra thực nghiệm.
Kể từ khi phi thực dân hóa sau Thế chiến II, các nước đang phát triển đã theo đuổi một cách có ý thức thuốc chữa bách bệnh của quá trình công nghiệp hóa để thu hẹp khoảng cách ngày càng mở rộng với các nước tiên tiến và để vượt qua các vấn đề phức tạp liên quan đến nghèo đói và đang trong quá trình phát triển.
Mục lục bài viết
1. Chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu là gì?
Trong nội dung mục 1 của bài viết về chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu thì trước tiên hết tác giả sẽ giúp quý bạn đọc hiểu hơn về các định nghĩa liên quan đến chiến lược này trước khi đi vào tìm hiểu và phân tích nội dung chính. Thì chắc hẳn quý bạn đọc không còn xa lạ gì khới thuật ngữ xuất khẩu, tuy nhiên được nghe rất nhiều những chắc hẳn quý bạn đọc chỉ hiểu một cách nôm na và đơn giản chứ chưa được iểu một cách xâu sắc về khái niệm này. Do đó, tác giả sẽ gửi đến quý bạn đọc định nghĩa về xuất khẩu đó chính là hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ở một quốc gia và bán cho người mua ở một quốc gia khác. Xuất khẩu cùng với nhập khẩu tạo nên thương mại quốc tế. Xuất khẩu cực kỳ quan trọng đối với các nền kinh tế hiện đại vì chúng mang lại cho mọi người và các doanh nghiệp nhiều thị trường hơn cho hàng hóa của họ. Một trong những chức năng cốt lõi của ngoại giao và chính sách đối ngoại giữa các chính phủ là thúc đẩy thương mại kinh tế, khuyến khích xuất khẩu và nhập khẩu vì lợi ích của tất cả các bên thương mại.
Theo công ty nghiên cứu Statista, trong năm 2019, các quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới (tính theo đô la) là Trung Quốc, Hoa Kỳ, Đức, Hà Lan và Nhật Bản.1 Trung Quốc đã xuất khẩu khoảng 2,5 nghìn tỷ đô la hàng hóa, chủ yếu là thiết bị điện tử. , và máy móc. Hoa Kỳ đã xuất khẩu khoảng 1,6 nghìn tỷ đô la, chủ yếu là hàng hóa tư bản. Xuất khẩu của Đức, trị giá khoảng 1,5 nghìn tỷ đô la, chủ yếu là xe có động cơ – cũng như của Nhật Bản, với tổng giá trị khoảng 705 tỷ đô la. Cuối cùng, Hà Lan có kim ngạch xuất khẩu khoảng 709 tỷ đô la.
Chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu còn được gọi là chiến lược hướng ngoại. Chiến lược hướng ngoại được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước Mỹ Latinh từ những năm 50 và các nước Đông Bắc Á những năm 60, sau đó phổ biến sang các nước Đông Nam Á vào đầu những năm 70 của thế kỉ XX.
Trong đó, điển hình là sự thành công của các nước NICs – bốn con rồng châu Á: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hong Kong. Do đó, nội dung của chiến lược sản xuất hướng về cuất khẩu có nội dung đó là:
– Thứ nhất, bản chất của chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu được nhấn manh ở đây là sử dụng các lợi thế tương đối và lợi thế tuyệt đối hay còn được gọi là lợi thế so sánh. Ngoài ra thì chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu còn sử dụng những nhân tố sản xuất thuộc tiềm năng của đất nước trong phân công lao động quốc tế để đem lại lợi ích tối ưu cho quốc gia. Chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu đucợ xây dựng và hình thành phát triển nhằm mở cửa nền kinh tế quốc dân để thu hút đầu tư vào khai thác tiềm năng lao động và tài nguyên thiên nhiên của đất nước.
– Thứ hai, chiến lược sản xuất hướng về nhập khẩu nhấn mạnh ba vấn đề cơ bản:
+ Vấn đề đầu tiên là việc khuyến khích mở rộng xuất khẩu thay cho việc kiểm soát nhập khẩu để tiết kiệm ngoại tệ và kiểm soát tài chính.
+ Vấn đề thứ hai được dùng để hạn chế bảo hộ ngành công nghiệp trong nước, thay vào đó là nâng đỡ và hỗ trợ cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu.
+ Vấn đề thứ ba trong chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu là để đảm bảo môi trường đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài thông qua hệ thống các chính sách khuyến khích và kinh tế tự do để thu hút vốn, công nghệ, trình độ quản lí của nước ngoài.
2. Phân tích ưu nhược điểm của chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu:
Ưu điểm của chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu
Lợi thế của việc xuất khẩu cho các công ty. Các công ty xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ vì nhiều lý do. Xuất khẩu có thể tăng doanh thu và lợi nhuận nếu hàng hoá tạo ra thị trường mới hoặc mở rộng thị trường hiện có, và thậm chí chúng có thể tạo cơ hội để chiếm thị phần đáng kể trên toàn cầu. Các công ty xuất khẩu phân tán rủi ro kinh doanh bằng cách đa dạng hóa vào nhiều thị trường. Xuất khẩu ra thị trường nước ngoài thường có thể giảm chi phí trên một đơn vị bằng cách mở rộng hoạt động để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng. Cuối cùng, các công ty xuất khẩu vào thị trường nước ngoài có được kiến thức và kinh nghiệm mới có thể cho phép khám phá các công nghệ mới, thực tiễn tiếp thị và hiểu biết sâu hơn về các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.
– Một trong những ưu điểm của chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu mf không thể không nhắc đến ở đây đó chính là việc tận dụng được những lợi thế từ thị trường thế giới về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lí của các nước tiên tiến.
– Ưu điểm thứ hai đó chính là việc khai thác được tiềm năng, lợi thế so sánh của đất nước cho phát triển kinh tế, đặc biệt là sản xuất hàng xuất khẩu.
– Cuối cùng trong chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu thì phải có thị trường quốc tế rộng lớn cho tiêu thụ sản phẩm, kể cả thị trường các yếu tố đầu vào cho sản xuất.
Áp dụng chiến lược này, nhiều nước đang phát triển trong vài ba thập kỉ đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, một số ngành công nghiệp (chủ yếu là các ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu) đã đạt trình độ tiên tiến, hiện đại, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Ngoại thương trở thành “đầu tàu” của nền kinh tế.
Hạn chế
– Bên cạnh đó thì chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu cũng có nhựng hạn chế do quá tập trung cho sản xuất hàng xuất khẩu và các ngành có liên quan nên có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối giữa các ngành xuất khẩu và các ngành không xuất khẩu.
– Ngoài ra thì trong chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu này của nền kinh tế gắn chặt với thị trường thế giới, dễ bị ảnh hưởng, tác động bởi những biến đổi thăng trầm và chịu sự chi phối của thị trường các nước lớn và các thị trường xuất khẩu chủ yếu.
Rào cản thương mại là bất kỳ luật, quy định, chính sách hoặc thông lệ nào của chính phủ được thiết kế để bảo vệ các sản phẩm trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài hoặc kích thích xuất khẩu một cách giả tạo các sản phẩm nội địa cụ thể. Các rào cản ngoại thương phổ biến nhất là các biện pháp và chính sách do chính phủ áp đặt nhằm hạn chế, ngăn cản hoặc cản trở việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ quốc tế. Các công ty xuất khẩu phải đối mặt với một loạt thách thức riêng. Các chi phí tăng thêm có khả năng được thực hiện vì các công ty phải phân bổ nguồn lực đáng kể để nghiên cứu thị trường nước ngoài và sửa đổi sản phẩm để đáp ứng nhu cầu và quy định của địa phương.
Xuất khẩu tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế và kích thích hoạt động kinh tế trong nước bằng cách tạo ra việc làm, sản xuất và doanh thu.Các công ty xuất khẩu thường có mức độ rủi ro tài chính cao hơn. Các phương thức nhờ thu thanh toán, chẳng hạn như mở tài khoản, thư tín dụng, trả trước và ký gửi, vốn đã phức tạp hơn và mất nhiều thời gian hơn so với các khoản thanh toán từ khách hàng trong nước.
Một ví dụ về một mặt hàng xuất khẩu của Mỹ vươn ra khắp thế giới là rượu bourbon, một loại rượu whisky có nguồn gốc từ Hoa Kỳ (trên thực tế, nó được định nghĩa là “sản phẩm đặc biệt của Hoa Kỳ” theo nghị quyết của Quốc hội Hoa Kỳ) . Hơn nữa, nếu rượu được dán nhãn Kentucky bourbon, nó phải được sản xuất tại bang Kentucky, tương tự như cách rượu vang sủi bọt phải vang lên từ vùng Champagne của Pháp để tự gọi mình là “sâm panh.” Thị trường toàn cầu đã phát triển khá cơn khát rượu bourbon của Mỹ nói chung và rượu bourbon của Kentucky nói riêng trong thế kỷ 21. Tuy nhiên, vào năm 2018, chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu và Trung Quốc đã dẫn đến việc áp thuế 25% đối với mặt hàng làm từ ngô, để lại vị chua trong miệng của nhiều nhà sản xuất chưng cất, xuất khẩu và phân phối.