Chỉ tiêu động là một loại đường trung bình được thiết kế để theo dõi thị trường tốt hơn so với các chỉ tiêu trung bình động hiện có. Phân tích hiệu quả tài chính theo nhóm chỉ tiêu động?
Trong hoạt động kinh doanh và tao đổi buôn bán hàng hóa trên nền kinh tế thị trường thì hiện nay đa phần các giao dịch này đều chịu sự ảnh hưởng nhất định của dòng tiền. Mà trên thực tế thì dòng tiền không đứng yên mà nó có sự biến thiên theo thời gian. Việc thay đổi và dao động của dòng tiền đa phần dựa trên sự thay đổi của nền kinh tế. Do đó, để có thể tính toán được một dự án mà ở đó có nhắn đến tiền óc gia trị theo thời gian thì đa phần các doanh nghiệp đều dự trên chỉ tiêu động.
Mục lục bài viết
1. Chỉ tiêu động là gì?
Trên thực tế thì chỉ tiêu động được xác định ở đây đó chính là chỉ tiêu phân tích đánh giá với trạng thái thay đổi bất kì của dòng tiền theo thời gian. Đồng thời cũng dựa trên chỉ tiêu dộng này để có thể thực hiện các phương pháp tính toán cho cả dòng đời dự án và có xét đến giá trị theo thời gian của tiền trên nền kinh tế thị trường hiện nay.
Chỉ tiêu động là một loại đường trung bình được thiết kế để theo dõi thị trường tốt hơn so với các chỉ tiêu trung bình động hiện có. Đây là một chỉ tiêu kỹ thuật được cải thiện dựa trên các đường trung bình động bằng cách điều chỉnh theo sự thay đổi của tốc độ thị trường. Chỉ tiêu động là một loại đường trung bình được thiết kế để theo dõi thị trường tốt hơn so với các chỉ tiêu trung bình động hiện có.
Chỉ tiêu động này giải quyết vấn đề thay đổi tốc độ thị trường bằng cách kết hợp một hệ số điều chỉnh tự động vào công thức của nó, hệ số này làm tăng tốc độ (hoặc làm chậm) chỉ tiêu trong các thị trường có xu hướng hoặc khác nhau. Chỉ tiêu động cải thiện dựa trên các đường trung bình động thông thường bằng cách giảm thiểu sự phân tách giá và biến động bất ổn để hành động giá được phản ánh chính xác hơn.
Chỉ tiêu động cố gắng giải quyết một vấn đề cố hữu trong các đường trung bình động sử dụng độ dài thời gian cố định. Vấn đề cơ bản là thị trường, với vai trò là cơ chế chiết khấu tuyệt vời, phản ứng với các sự kiện ở tốc độ mà một đường trung bình động sẽ không thể đối phó được. Vấn đề này được gọi là độ trễ và không có loại đường trung bình động nào, dù là đường đơn giản (SMA), hàm mũ (EMA) hay có trọng số (LWMA), không bị ảnh hưởng bởi điều này. Có thể hiểu, điều này sẽ đặt ra câu hỏi về độ tin cậy của đường trung bình động đó. Chỉ tiêu động tính đến những thay đổi về tốc độ trong thị trường (do đó, “động”) để hiển thị đường trung bình động mượt mà hơn, phản hồi nhanh hơn.
Tốc độ của thị trường không nhất quán; nó thường xuyên tăng tốc và chậm lại. Các đường trung bình truyền thống, chẳng hạn như đường trung bình động đơn giản hoặc đường trung bình động hàm mũ, không tính đến đặc điểm thị trường này.
Chỉ tiêu động giải quyết vấn đề này bằng cách kết hợp hệ số làm mịn tự động vào công thức của nó để điều chỉnh theo các chuyển động của thị trường. Điều này làm tốc độ hoặc làm chậm lại, chỉ tiêu trong các thị trường có xu hướng hoặc phạm vi. Điều này không có nghĩa là vấn đề tụt hậu nói trên đã được xóa bỏ, chỉ có nghĩa là phản ứng với chuyển động của thị trường nhanh hơn. Điểm quan trọng cần lưu ý là, do không đổi trơn tru, nó sẽ phản ứng với thị trường nhiều hơn so với các đường trung bình động khác. Người dùng có thể tùy chỉnh chỉ số này thông qua việc lựa chọn số kỳ
2. Phân tích hiệu quả tài chính theo nhóm chỉ tiêu động:
Trên cơ sở tìm hiểu về chỉ số động của dòng tiền như tác giả đã nêu ra ở nội dung của mục 1 trong bài viết này. thì tiếp theo đây tác giả sẽ gửi tới quý bạn đọc nội dung liên quan đến việc phân tích hiệu quả tài chính theo nhóm chỉ tiêu động. Do đó, theo như nhận định của tác giả thì hiệu quả tài chính theo nhóm chỉ tiêu động bao gồm các phương pháp như sau:
Thứ nhất, đó chính là phương pháp dùng chỉ tiêu hiệu số thu chi hay còn được gọi một cách đơn giản hơn đó chính là chỉ số tuyệt đối.
Phương pháp dùng chỉ tiêu hiệu số thu chi được hiểu một cách đơn giản nhất đó chính là tổng hiệu số thu chi của dự án có tính đến giá trị của tiền tệ thay đổi theo thời gian nhất định. Do đó, mà giá trị của tiền tệ cũng được quy về các thời điểm khác nhau theo các trường hợp cụ thể.
Một là, phương pháp dùng chỉ tiêu hiện giá hiệu số thu chi được kí hiệu NPW hoặc NPV. Trong phương pháp này đã hiện giá hiệu số thu chi được nhận định là chỉ tiêu hiệu quả và được tính theo số tuyệt đối được đo bằng tổng số các giá trị của hiệu số thu chi ở từng năm vận hành được qui đổi về thời điểm hiện tại. Trên thực tế thì để tính được giá thu chi thì cần thực hiện việc tính tổng số các giá trị của hiệu số thu chi ở từng năm vận hành được qui đổi về thời điểm hiện tại của một doanh nghiệp sáu đó sẽ cho ra kết quả tuyệt đối là giá hiệu số thu chi được thực hiện đó bằng phương thức này. Chỉ tiêu hiện giá hiệu số thu chi biểu thị tổng số lợi nhuận ròng của dự án tạo ra được đánh giá ở thời điểm hiện tại.
Hai là, phương pháp dùng chỉ tiêu giá trị tương lai của hiệu số thu chi (NFV hoặc NFW). Do đó, giá trị tương lai của hiệu số thu chi được định nghĩa là chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối được đo bằng tổng số các giá trị của hiệu số thu chi ở từng năm vận hành được qui đổi về thời điểm cuối cùng kết thúc dự án.
Ba là, phương pháp dùng chỉ tiêu hiệu số thu chi san đều hàng năm (NAW hoặc NAV). Mà ở đó, hiệu số thu chi san đều hàng năm được định nghĩa là chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối được xác định bằng cách san đều trị số của chỉ tiêu hiện giá hiệu số thu chi cho tất cả các năm vận hành.
Thứ hai, là phương pháp dùng chỉ tiêu tương đối hai còn được biết đến là phương pháp dùng chỉ tiêu suất thu lợi nội tại (kí hiệu là IRR). Trong đó thì suất thu nội tại được hiểu một cách đơn giản nhất đó chính là lãi suất của dự án được tính toán cho từng thời đoạn (thường là một năm) có giá trị thay đổi trong tất cả các thời hạn khác nhau của vòng đời dự án. Bên cạnh đó thì lãi suất này do nội tại của dự án sinh ra mà nếu dùng nó để tính đổi tương đương dòng tiền hiệu số thu chi của dự án theo qui luật sinh lãi ghép vào một thời điểm tính toán bất kì chọn trước. Đối với việc đưa ra những vấn đề chọn trước thì giá trị tương đương đó phải bằng không.
Thứ ba, phương pháp so sánh lựa chọn phương án đầu tư loại trừ nhau theo các chỉ tiêu NPV, NFV, IRR, BCR khi tuổi thọ của các phương án khác nhau. Đối với phương pháp so sánh lựa chọn phương án đầu tư loại trừ nhau này thì khi thực hiện dự án nhưng có thể có nhiều phương án kĩ thuật. Đồng thời thì cần có và áp dụng các công nghệ khác nhau việc làm này sẽ dẫn đến tuổi thọ của các phương án khác nhau là rất phổ biến trong thực tế mà đa phần các doanh nghiệp trên nrnr kinh tế thị trường này áp dụng. Để chọn được các phương án đầu tư tốt nhất theo chỉ tiêu NFV, NPV, IRR hoặc BCR cho trường hợp này phải thực hiện theo các bước sau:
– Bước 1: xác định tuổi thọ chung cho tất cả các phương án.
– Bước 2: lập lại dòng tiền thu và lập lại dòng tiền chi cho từng phương án theo tuổi thọ chung đã chọn ra.
– Bước 3: Tính toán và lựa chọn phương án tốt nhất như các phương pháp đã trình bày ở trên.
Chỉ tiêu động này cải thiện dựa trên các đường trung bình động thông thường bằng cách giảm thiểu sự phân tách giá và biến động bất ổn để hành động giá được phản ánh chính xác hơn. Chỉ tiêu động cho phép tăng hoặc giảm tốc trong chỉ tiêu động chỉ dựa trên chuyển động giá của chứng khoán. Mặc dù các nhà giao dịch có thể sử dụng đường này để đưa ra quyết định mua hoặc bán, mục đích ban đầu của McGinley đối với chỉ báo của mình là giảm độ trễ giữa chỉ báo và thị trường – logic là một đường trung bình động theo dõi nhanh hơn sẽ đáng tin cậy hơn trong việc tạo ra các tín hiệu giao dịch.