Chỉ số tự do kinh tế là gì? Tầm quan trọng của tự do kinh tế?
Chỉ số tự do kinh tế đo lường các khu vực tài phán chống lại nhau về các thông số như tự do thương mại, gánh nặng thuế, hiệu lực tư pháp. Vậy quy định về Chỉ số tự do kinh tế là gì, tầm quan trọng của tự do kinh tế được quy định như thế nào.
Mục lục bài viết
1. Chỉ số tự do kinh tế là gì?
– Khái niệm chỉ số Tự do Kinh tế:
Các yếu tố này có thể được tính theo ảnh hưởng của chúng đối với tự do kinh tế và được tổng hợp thành một điểm số duy nhất cho phép xếp hạng. Việc xếp hạng có thể được thực hiện trên cơ sở quốc gia hoặc có thể xem xét các khu vực rộng lớn hơn hoặc các đơn vị địa phương nhỏ hơn như các bang.
Chỉ số tự do kinh tế được tham khảo rộng rãi nhất do Heritage Foundation, một tổ chức tư tưởng bảo thủ của Mỹ đưa ra. Viện Fraser, một tổ chức tư vấn của Canada, cũng xuất bản một chỉ số nổi tiếng về tự do kinh tế.
– Chỉ số tự do kinh tế là một thước đo tổng hợp đánh giá chất lượng của các thể chế kinh tế – chính trị trên các khu vực tài phán khác nhau. Điểm và xếp hạng trong một chỉ mục dựa trên các tiêu chí mà người tạo chỉ mục đánh giá là có liên quan, các tiêu chí này thay đổi từ chỉ số này sang chỉ số khác. Các chỉ số này được thúc đẩy bởi nhận xét rằng các nền kinh tế dựa trên thị trường tự do hơn có xu hướng trải qua mức đầu tư lớn hơn, tăng trưởng nhanh hơn và thu nhập trung bình cao hơn. Các nhà đầu tư có thể sử dụng chỉ số tự do kinh tế như một cách nhanh chóng để theo dõi những thay đổi của các nền kinh tế mà họ muốn tiếp xúc. Quỹ Di sản xuất bản chỉ số tự do kinh tế được sử dụng rộng rãi nhất. Tuy nhiên, một số tổ chức công bố các chỉ số của riêng họ.
– Tìm hiểu thêm về các Chỉ số Tự do Kinh tế:
Các chỉ số về tự do kinh tế nảy sinh trong lĩnh vực kinh tế học như một bộ phận của Kinh tế học thể chế mới, đặc biệt là từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các thể chế kinh tế – chính trị và sự phát triển kinh tế. Quay trở lại ít nhất là theo ý tưởng của các nhà kinh tế học cổ điển, chẳng hạn như Adam Smith, đã có một loạt tư tưởng định hướng thị trường tự do trong kinh tế học. Dựa trên những quan sát của họ về cách thức hoạt động của các nền kinh tế, các nhà kinh tế đã phát triển các lý thuyết về cách thức các thể chế kinh tế-chính trị như thương mại tự do và việc thực thi nhất quán các quyền sở hữu tư nhân là yếu tố cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế và thịnh vượng chung.
2. Tầm quan trọng của tự do kinh tế:
Vào cuối thế kỷ 20, một số nhà kinh tế học Thể chế Mới đã tìm cách định lượng khái niệm “tự do kinh tế” mà các thể chế này thể hiện, để họ có thể sử dụng nó trong các nghiên cứu thực nghiệm nghiêm ngặt nhằm kiểm tra và chứng minh mối liên hệ giữa các thể chế và tăng trưởng kinh tế. Động lực chính của những nghiên cứu này là nhằm khắc phục những thất bại rõ ràng của các lý thuyết chính đương thời về phát triển kinh tế để giải thích sự khác nhau về tốc độ phát triển giữa các quốc gia khác nhau.
Các chỉ số về tự do kinh tế mà các nhà kinh tế này phát triển kết hợp dữ liệu định tính và định lượng về luật pháp, quy định, thuế và các chính sách kinh tế chung của các quốc gia khác nhau (hoặc các tổ chức chính trị địa phương) thành một điểm tổng hợp cho từng quốc gia và xếp hạng tổng thể giữa các quốc gia.
Các điểm số và thứ hạng này sau đó có thể được các nhà nghiên cứu so sánh thống kê với các chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động kinh tế hoặc các biến số khác. Nhìn chung, các nghiên cứu này đã phát hiện ra rằng các quốc gia tự do hơn về kinh tế cũng có xu hướng có tỷ lệ đầu tư cao hơn, tăng trưởng kinh tế nhanh hơn và thu nhập bình quân đầu người cao hơn.
Một vấn đề chính đối với việc xây dựng các chỉ số về tự do kinh tế là định nghĩa của thuật ngữ “tự do kinh tế”, cũng như cách thức bất kỳ chính sách hoặc thể chế cụ thể nào nên được coi là thúc đẩy hoặc làm mất đi tự do kinh tế. Cần lưu ý rằng một số loại này được tải về mặt ý thức hệ.
Ví dụ, việc không có các luật lệ về tiền lương tối thiểu có tính ràng buộc hấp dẫn một nhà kinh tế học theo kiểu tự do lao động ở mức độ cao về tự do lao động, nhưng có thể đánh vào một nhà kinh tế học tự do vì một chính sách hạn chế quyền tự do kinh tế của người lao động. Ngay cả giữa các nhà kinh tế học theo định hướng thị trường tự do, đôi khi vẫn có sự khác biệt gay gắt về quan điểm về việc liệu các chính sách và thể chế cụ thể có nên được coi là tự do kinh tế hay không.
Tuy nhiên, nhìn chung, bất chấp những bất đồng này, sự ra đời và áp dụng các chỉ số tự do kinh tế đã có ảnh hưởng trong những năm 1990 và 2000 trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và chính sách công. Những lợi ích kinh tế đã được chứng minh của tự do kinh tế đã giúp tăng cường mở cửa cho thương mại và các cải cách theo định hướng thị trường khác ở các nước đang phát triển, ở Đông Âu thời hậu Xô Viết, và ngay cả ở các nền kinh tế tiên tiến.
– Chỉ số Di sản của Tự do Kinh tế:
Chỉ số Tự do Kinh tế của Tổ chức Di sản là một trong những chỉ số phổ biến nhất trong số các chỉ số này. Nó cho điểm các quốc gia dựa trên 12 yếu tố: Quyền sở hữu; Hiệu lực tư pháp; Chính phủ liêm chính; Gánh nặng thuế; Chi tiêu chính phủ; Sức khỏe tài khóa; Quyền tự do kinh doanh; Tự do lao động; Tự do tiền tệ; Tự do thương mại; Tự do đầu tư; Tự do tài chính.
Điểm số của một quốc gia trong mỗi lĩnh vực sau đó được tổng hợp thành một điểm số duy nhất, theo đó các quốc gia được xếp hạng từ hầu hết (điểm cao nhất) đến ít miễn phí nhất.
Chỉ số Tự do Kinh tế của Tổ chức Di sản đã chỉ ra một số mối tương quan quan trọng sẽ khuyến khích các quốc gia cố gắng cải thiện điểm số của mình theo thời gian. Điều quan trọng nhất là nhận xét rằng những người sống ở các quốc gia được phân loại là tự do hoặc chủ yếu là miễn phí có thu nhập cao hơn những người sống ở các quốc gia có điểm số thấp hơn.
Chênh lệch giữa quốc gia tốt nhất và kém nhất là gần 10 lần, có nghĩa là trung bình một người ở quốc gia tự do về kinh tế kiếm được nhiều tiền hơn gần 10 lần so với người ở quốc gia không tự do về kinh tế. Liên quan đến chênh lệch thu nhập này, còn có mối tương quan giữa tự do kinh tế và tăng trưởng GDP, cũng như mức sống cao hơn và quy định pháp luật chung cho công dân.
– Chỉ số Xếp hạng Tự do Kinh tế Gần đây:
Trong những năm gần đây, các quốc gia hàng đầu về tự do kinh tế khá nhất quán. Singapore đứng số một vào năm 2021 với số điểm tổng thể là 89,7. Tiếp theo là New Zealand (83,9), Úc (82,4), Thụy Sĩ (81,9) và Ireland (81,4) để lọt vào vòng trong các nền kinh tế được đánh giá là tự do. Các quốc gia ở phía đối diện của phổ tự do bao gồm Triều Tiên (5,2), Venezuela (24,7), Cuba (28,1), Sudan (39,1) và Zimbabwe (39,1). Hoa Kỳ đứng thứ 20 với số điểm tổng thể là 74,8, giảm 1,8 điểm so với năm 2020 chủ yếu do các hạn chế thương mại gia tăng.
Như đã nói, điểm trong chỉ số tự do kinh tế càng cao thì thu nhập càng cao và ngược lại. Các quốc gia được xếp hạng là “tự do” hoặc “hầu hết miễn phí” có GDP bình quân đầu người cao gấp đôi mức trung bình chung và cao hơn sáu lần so với thu nhập bình quân đầu người của các quốc gia “bị kìm hãm”.
Ngoài ra còn có một hiện tượng khu vực mà các quốc gia có thứ hạng tương tự có thể được tập hợp lại. Vào năm 2021, khu vực châu Phi cận Sahara đạt điểm dưới mức trung bình của thế giới là 61,6 với điểm của khu vực là 55,7. Châu Âu đạt điểm cao hơn mức trung bình thế giới với tư cách là một khu vực với 70,1. Tất nhiên, có những ngoại lệ ở mọi khu vực. Triều Tiên, với tổng điểm kém nhất là 5,2, nằm trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương cùng với hai trong số những quốc gia đạt điểm cao nhất – Singapore và Đài Loan.
– Chỉ số Tự do Kinh tế được Sử dụng như thế nào để Đầu tư:
Trang web Chỉ số Tự do Kinh tế của Quỹ Di sản có bản đồ nhiệt cho phép bạn xem những thay đổi trên thế giới theo thời gian. Ngoài việc thú vị về mặt học thuật, sự thay đổi đối với tự do kinh tế theo thời gian có thể là một nguồn dữ liệu quan trọng cho các nhà đầu tư, đặc biệt là những người quan tâm đến các thị trường mới nổi.
Chỉ số tự do kinh tế có thể cung cấp một hướng dẫn về việc liệu tiềm năng cho các thị trường mới nổi nóng bỏng như các quốc gia BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc) có thực sự thấy những thay đổi chính sách cần thiết cho sự tăng trưởng đó để mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư quốc tế hay không. Ngược lại, những thay đổi tiêu cực trong chỉ số có thể là một tín hiệu cho các nhà đầu tư cắt giảm tiếp xúc trực tiếp và gián tiếp của họ với các quốc gia đang trải qua sự suy giảm.