Chênh lệch giá ghi nợ được hiểu cơ bản là một chiến lược quyền chọn liên quan trực tiếp đến việc mua và bán đồng thời các quyền chọn cùng loại với các mức giá khác nhau yêu cầu một dòng tiền ròng. Một số thuật ngữ liên quan?
Có nhiều chiến lược quyền chọn trong thực tiễn. Mỗi chiến lược quyền chọn đều có những giá trị và ý nghĩa quan trọng trong quá trình các chủ thể thực hiện các giao dịch. Một trong số những chiến lược quyền chọn phổ biến thường được nhắc đến đó là chênh lệch giá ghi nợ. Chắc hẳn hiện nay vẫn còn nhiều người chưa biết đến thuật ngữ này.
Mục lục bài viết
1. Chênh lệch giá ghi nợ:
Khái niệm chênh lệch giá ghi nợ:
Chênh lệch giá ghi nợ hay còn được gọi chênh lệch giá ghi nợ ròng.
Chênh lệch giá ghi nợ được hiểu cơ bản là một chiến lược quyền chọn liên quan trực tiếp đến việc mua và bán đồng thời các quyền chọn cùng loại với các mức giá khác nhau yêu cầu một dòng tiền ròng.
Kết quả của chiến lược này đó chính là một khoản ghi nợ ròng vào tài khoản giao dịch.
Với chiến lược giao dịch chênh lệch giá trong giao dịch quyền chọn, thì tổng giá trị của tất cả các quyền chọn được bán thấp hơn tổng giá trị của tất cả các quyền chọn được mua, chính bởi vì thế mà các chủ thể là người giao dịch phải bỏ thêm tiền để bắt đầu tiếp tục giao dịch.
Mức chênh lệch giá ghi nợ càng cao, dòng tiền ban đầu mà các chủ thể là các nhà giao dịch phải chi khi giao dịch càng lớn.
Chênh lệch giá ghi nợ hay chênh lệch giá ghi nợ ròng trong tiếng Anh là gì?
Chênh lệch giá ghi nợ hay chênh lệch giá ghi nợ ròng trong tiếng Anh là Debit Spread hoặc Net Debit Spread.
Đặc điểm chênh lệch giá ghi nợ:
Chiến lược giao dịch chênh lệch giá trong giao dịch quyền chọn thường liên quan đến việc mua một quyền chọn và bán một quyền chọn khác cùng loại trên cùng một chứng khoán cơ sở với giá thực hiện khác nhau hoặc thời gian đáo hạn khác nhau.
Ngoài ra, có nhiều loại chênh lệch giá liên quan đến ba quyền chọn (hoặc nhiều hơn) nhưng cơ bản thì trong thực tế các chiến lược này đều giống nhau.
Nếu thu nhập thu được từ tất cả các quyền chọn đã bán thấp hơn chi phí của tất cả các quyền chọn đã mua, thì kết quả giao dịch là một khoản ghi nợ ròng vào tài khoản, do đó được gọi là chênh lệch giá ghi nợ.
Ngược lại với chênh lệch giá ghi nợ đó chính là chênh lệch tín dụng, có giá trị của tất cả các quyền chọn được bán lớn hơn giá trị của tất cả các quyền chọn đã mua, do đó kết quả là tín dụng ròng cho tài khoản giao dịch. Hay còn được diễn giải là thị trường đang trả tiền để nhà đầu tư giao dịch.
Cách sử dụng chiến lược chênh lệch giá ghi nợ:
Ví dụ rằng các chủ thể là các nhà giao dịch A mua một quyền chọn bán với giá 2,65$. Bên cạnh đó, người này bán một quyền chọn bán khác với cùng một chứng khoán cơ sở với giá thực hiện cao hơn 2,50$.
Chiến lược này được gọi là đầu cơ chênh lệch giá lên bằng quyền chọn bán. Khoản ghi nợ là 0,15$, dẫn đến chi phí ròng là 0,15$ x 100 = 15$ để nhằm bắt đầu giao dịch chênh lệch giá.
Mặc dù phải chịu lỗ ban đầu để giao dịch, nhà giao dịch A tin rằng chứng khoán cơ sở sẽ tăng giá dần và quyền chọn mua có giá trị hơn trong tương lai.
Kịch bản tốt nhất xảy ra với chênh lệch giá ghi nợ là khi chứng khoán đáo hạn tại hoặc cao hơn mức giá thực hiện của quyền chọn được bán, mang lại cho người giao dịch số lợi nhuận lớn nhất có thể trong khi hạn chế rủi ro.
Chiến lược giao dịch ngược lại với chiến lược trên là đầu cơ giá xuống bằng quyền chọn bán, cũng mua quyền chọn đắt hơn (hay với giá thực hiện cao hơn) trong khi bán quyền chọn rẻ hơn (hay với giá thực hiện thấp hơn).
Kết quả có một khoản ghi nợ ròng vào tài khoản giao dịch khi bắt đầu giao dịch.
Mặt khác, đầu cơ giá xuống bằng quyền chọn mua và đầu cơ chênh lệch giá lên bằng quyền chọn mua là chênh lệch tín dụng.
Tính toán lợi nhuận:
Điểm hòa vốn cho chênh lệch giá ghi nợ tăng giá (quyền chọn bán) chỉ gồm hai quyền chọn cùng loại và cùng thời gian đáo hạn có mức giá thực hiện thấp hơn (quyền chọn được mua) cộng với khoản ghi nợ ròng (tổng số chi cho chênh lệch).
Đối với chênh lệch giá ghi nợ giảm giá (quyền chọn mua), điểm hòa vốn được tính bằng cách lấy mức giá thực hiện cao hơn (quyền chọn đã mua) trừ đi khoản ghi nợ ròng (tổng số đã chi cho chênh lệch).
Ví dụ cụ thể về chênh lệch giá ghi nợ:
Một chủ thể là nhà đầu tư thực hiện chiến lược chênh lệch giá ghi nợ tăng giá với chứng khoán cơ sở giao dịch ở mức 65$.
Người này mua quyền chọn bán 60$ và bán quyền chọn bán 70$ (cùng thời gian đáo hạn) với khoản nợ ròng 6$.
Điểm hòa vốn sẽ là 66$, là mức giá thực hiện quyền thấp hơn (60$) + ghi nợ ròng (6$) = 66$.
Lợi nhuận tối đa xảy ra khi tài sản cơ sở đáo hạn ở mức bằng hoặc cao hơn giá thực hiện quyền cao hơn.
Giả sử cổ phiếu đáo hạn ở mức 70$, lợi nhuận sẽ là 70$ – 60$ – 6$ = 4$, hoặc 400$ mỗi hợp đồng.
Khoản lỗ tối đa giới hạn trong khoản ghi nợ ròng đã trả.
2. Một số thuật ngữ liên quan:
Chênh lệch tín dụng:
– Khái niệm chênh lệch tín dụng:
Chênh lệch tín dụng, tiếng Anh gọi là credit spread, bond spread hay default spread.
Chênh lệch tín dụng là khoản chênh lệch giữa lợi suất của trái phiếu chính phủ Mỹ với những chứng khoán nợ khác có cùng thời gian đáo hạn nhưng khác nhau về chất lượng tín dụng.
Chênh lệch tín dụng giữa trái phiếu chính phủ Mỹ và những trái phiếu khác sẽ được đo bằng điểm cơ bản, với 1% lợi suất chênh lệch tương đương với 100 điểm cơ bản.
Ví dụ cụ thể như một trái phiếu chính phủ kì hạn 10 năm có lợi suất là 5% và một trái phiếu doanh nghiệp kì hạn 10 năm có mức lợi suất là 7% thì chênh lệch tín dụng là 200 điểm cơ bản.
Chênh lệch tín dụng hỗ trợ việc so sánh giữa trái phiếu doanh nghiệp với các khoản đầu tư thay thế phi rủi ro khác.
Ngoài ra, chênh lệch tín dụng cũng là tên gọi của một chiến lược đầu tư quyền chọn với việc bán quyền chọn có mức phí quyền chọn cao đồng thời mua quyền chọn có mức phí quyền chọn thấp trên cùng một loại tài sản cơ sở.
– Tìm hiểu rõ hơn về chênh lệch tín dụng:
Khác biệt chênh lệch tín dụng giữa trái phiếu này với trái phiếu khác là tùy thuộc vào đánh giá tín dụng của bên phát hành trái phiếu. Những trái phiếu chất lượng cao với rủi ro vỡ nợ của nhà phát hành thấp thường sẽ đưa ra một mức lãi suất không cao. Còn trái phiếu chất lượng thấp với rủi ro vỡ nợ cao thì cần đưa ra một mức lãi suất cao để hấp dẫn các chủ thể là các nhà đầu tư.
Chênh lệch tín dụng biến động chủ yếu là do những sự thay đổi trong tình trạng của nền kinh tế (lạm phát), thanh khoản, hay nhu cầu đầu tư trong thị trường đó.
Ví dụ cụ thể như khi tình trạng nền kinh tế bắt đầu biến chuyển kém đi thì nhà đầu tư thường sẽ mua trái phiếu chính phủ và bán ra trái phiếu doanh nghiệp. Việc này sẽ làm cho giá trái phiếu chính phủ tăng và giảm lợi suất, trong khi trái phiếu doanh nghiệp sẽ giảm giá và tăng lợi suất.
Mức độ lo lắng của các chủ thể là nhà đầu tư càng cao thì độ chênh lệch càng lớn. Đó cũng là lí do mà chênh lệch tín dụng thường được sử dụng như một thước đo cho tình trạng nền kinh tế rộng là xấu và hẹp là tốt.
Quyền chọn bán:
Quyền chọn bán được định nghĩa như sau: một quyền chọn bán cho người mua sở hữu quyền được bán tài sản cơ sở tại một giá cố định cho người bán quyền chọn bán. Đổi lại, các chủ thể là người mua quyền phải trả cho người bán một khoản phí. Người bán quyền có nghĩa vụ phải trả cho người bán một khoản phí. Người bán quyền có nghĩa vụ phải mua tài sản khi người mua thực hiện quyền (nghĩa là bán tài sản).
Quyền chọn mua:
Quyền chọn mua được định nghĩa như sau: một quyền chọn mua cho người mua sở hữu quyền được mua một loại tài sản cơ sở ở một mức giá cố định (gọi là giá thực hiện) trong một khoản thời gian xác định. Đổi lại, chủ thể là người mua quyền phải trả ngay cho người bán quyền một khoản tiền gọi là phí quyền chọn, người bán quyền có nghĩa vụ phải bán tài sản khi người mua thực hiện quyền (nghĩa là mua tài sản).
Đầu cơ giá lên bằng quyền chọn bán:
Đầu cơ giá lên bằng quyền chọn bán được hiểu là việc mua một quyền chọn bán với giá thực hiện thấp X1 và bán một quyền chọn bán với cùng một số lượng nhưng có giá thực hiện X2 cao hơn X1 với cùng ngày đáo hạn.
Bởi vì phí quyền chọn của một quyền chọn bán luôn tăng khi giá thực hiện tăng nên phí của quyền chọn đã bán đi luôn lớn hơn phí của quyền chọn mua vào. Như vậy chiến lược này có lãi ngay từ đầu.
Đầu cơ giá xuống bằng quyền chọn mua:
Đầu cơ giá xuống bằng quyền chọn mua được hiểu là việc mua số quyền chọn mua với giá thực hiện X1 đồng thời bán quyền chọn mua với cùng khối lượng và ngày đáo hạn nhưng với giá thực hiện X2 thấp hơn X1. Dễ có thể thấy chiến lược thu lợi nhuận ngay từ ban đầu.
Đầu cơ giá lên bằng quyền chọn mua:
Đầu cơ giá lên bằng quyền chọn mua được hiểu là việc mua quyền chọn mua với giá thực hiện thấp X1 và bán một quyền chọn mua với cùng số lượng nhưng có giá thực hiện X2 cao hơn X1 với cùng thời gian đáo hạn.
Bởi vì phí của một quyền chọn mua luôn giảm khi giá thực hiện tăng nên phí của quyền chọn đã bán đi luôn nhỏ hơn phí của quyền chọn mua vào. Như vậy chiến lược này sẽ cần có sự đầu tư ban đầu.