Chế độ phong kiến Trung Quốc là một trong những chế độ hùng mạnh nhất đã đi qua một thời vàng son trong lịch sử. Vậy chế độ phong kiến Trung Quốc xác lập khi nào? Chế độ phong kiến của Trung Quốc đã đạt được những thành tựu gì trong các lĩnh vực?
Mục lục bài viết
1. Chế độ phong kiến Trung Quốc được xác lập, hình thành khi nào?
Ở Trung Quốc, vào những thế kỷ cuối cùng trước công nguyên, cùng với sự phát triển của sản xuất, quan hệ bóc lột giữa địa chủ và nông dân đã hình thành, xã hội phân chia thành các giai cấp, do đó chế độ phong kiến sớm ra đời. Nhà Tần bắt đầu xây dựng bộ máy chính quyền phong kiến. Hoàng đế có quyền lực tuyệt đối, có quyền cho sống và giết tất cả mọi người trong thế gian.
Từ xa xưa, đã có nhiều vùng đất nhỏ của Trung Quốc ở lưu vực sông Hoàng Hà và sông Dương Tử. Các cuộc chiến thường xuyên xảy ra giữa các quốc gia này, nhằm xâu xé và thôn tính lẫn nhau, làm thành cục diện Xuân Thu Chiến Quốc. Vào thế kỷ IV TCN, nước Tần trở thành nước có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất. Dựa trên lợi thế này, nhà Tần đã lần lượt tiêu diệt các đối thủ của mình, chấm dứt tình trạng chia cắt khu vực.
Năm 221 trước Công nguyên, nhà Tần thống nhất được Trung Quốc. Đến thời nhà Tần, các giai cấp mới được hình thành. Quan lại là người có nhiều ruộng đất riêng trở thành điền chủ. Nông dân cũng bị phân hoá. Số nông dân công xã còn lại tiếp tục giữ đất đai của họ để canh tác và làm nông nghiệp. Phần còn lại của nông dân công xã là những người rất nghèo, không có ruộng và phải lấy đất của địa chủ để cày cấy. Khi nhận ruộng, họ phải nộp cho chủ đất một phần lợi tức, gọi là địa tô. Lúc này, quan hệ bóc lột địa tô của địa chủ được thay thế bằng quan hệ bóc lột của tầng lớp quý tộc với nông dân công xã. Từ đó chế độ phong kiến được thành lập.
Tần Thủy Hoàng là vị vua bắt đầu xây dựng chính quyền phong kiến tập quyền. Vua Tần tự xưng mình là hoàng đế, tự cho mình là đấng tối cao có quyền lực tuyệt đối, là người quyết định mọi công việc của đất nước. Dưới vua là hệ thống quan lại và văn võ. Tể tướng đứng đầu các quan, Thái úy đứng đầu các quan văn võ. Đây là hai vị quan cao nhất giúp hoàng đế trị vì đất nước. Ngoài ra còn có các quan coi giữ tài chính, lương thực. Hoàng đế có sức mạnh quân sự to lớn để duy trì trật tự xã hội, trấn áp các cuộc nổi loạn trong nước và tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược với người ngoài. Hoàng đế chia đất nước thành các quận; đặt quan Thái thú (ở huyện) và huyện ban (ở huyện). Các quan phải tuân theo mệnh lệnh của hoàng đế và luật pháp của đất nước. Sự thống nhất của Trung Quốc vào năm 221 TCN dưới thời Tần Thủy Hoàng đánh dấu sự khởi đầu của Đế quốc Trung Hoa. Triều đại nhà Tần để lại một di sản tập trung hóa và một hệ thống quan liêu được truyền lại cho các triều đại sau. Tuy nhiên, nhà Tần chỉ tồn tại được 15 năm thì bị tiêu diệt bởi cuộc nổi dậy của nông dân do Trần Thắng và Ngô Quảng lãnh đạo. Lưu Bang, một địa chủ phong kiến, lên ngôi và thành lập nhà Hán (206 TCN – 220 TCN). Các hoàng đế nhà Hán tiếp tục củng cố bộ máy quyền lực bằng cách mở rộng cách thức bổ nhiệm con cái của gia đình lãnh chúa vào chính quyền. Nguyên từ đất Trung Quốc ở trung lưu Hoàng Hà, nhà Tần và nhà Hán lần lượt đánh chiếm thượng nguồn Hoàng Hà (Càn Tử) và sát nhập vùng Trường Giang với lưu vực sông Châu, đồng thời dần dần xâm nhập lên Thiên Sơn ở phía đông, xâm lược Triều Tiên và đất đai của người Việt cổ.
Tóm lại, chế độ phong kiến Trung Quốc được xác lập, hình thành như sau:
Chế độ phong kiến phát sinh từ địa chủ và nông dân thuê đất. Khi nhà Tần được thành lập, các giai cấp mới xuất hiện.
Quan lại sở hữu nhiều ruộng đất thì trở thành địa chủ.
Nông dân được chia thành:
– Nông dân tự canh: vẫn sở hữu ruộng đất để cày.
– Nông dân lĩnh canh: không có ruộng, phải nhận ruộng để cày cấy và nộp một phần hoa lợi cho chủ, đó gọi là thổ công.
→ Quan hệ bóc lột địa tô của đại chủ đã thay thế quan hệ bóc lột của quý tộc với nông dân làng xã.
2. Chế độ phong kiến Trung Quốc thời Tần – Hán:
Vào thời cổ đại, lưu vực sông Hoàng Hà và sông Dương Tử là nơi sinh sống của nhiều quốc gia nhỏ ở Trung Quốc, nên thường xảy ra chiến tranh và thôn tính lẫn nhau.
Thời Tần: 221 TCN -206 TCN
– Đầu thế kỷ IV TCN, nhà Tần lần lượt đánh bại các đối thủ, năm 221 TCN, Tần thống nhất Trung Quốc.
– Vua Tần, tuyên bố quyền lực tuyệt đối, lấy danh hiệu là Tần Thủy Hoàng, bắt đầu vào công việc xây dựng chính quyền.
– Nhà Tần tồn tại trong 15 năm, sau đó Lưu Bang lên ngôi lập ra nhà Hán.
Nhà Hán: 206 TCN – 220
– Tiếp tục củng cố bộ máy cai trị, mở rộng hình thức tiến cử.
– Nhà Tần, nhà Hán chiếm thượng nguồn Hoàng Hà, thôn tính Trường Giang, chiếm đông Thiên Sơn, xâm lược Triều Tiên và các vùng đất của người Việt cổ.
3. Chế độ phong kiến Trung Quốc dưới thời Đường:
Năm 618, Lý Uyên dẹp loạn, đàn áp khởi nghĩa nông dân, sau đó ngôi Hoàng đế và lập ra nhà Đường (618 – 907).
3.1. Về Kinh tế:
Nông nghiệp thực hiện chính sách quân điền, nông dân thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước theo thứ tự địa tô, dụng và điệu.
Thủ công nghiệp phát triển, các công xưởng được gọi là hợp tác xã, như luyện sắt, đóng thuyền…
Thương nghiệp phát triển, các con đường tơ lụa trên bộ và trên biển được thiết lập và mở rộng.
3.2. Về chính trị:
Bổ sung dần chính quyền từ trung ương xuống địa phương để tập trung quyền lực tuyệt đối của hoàng đế
Tăng thêm các chức vụ trong quân đội
Tuyển dụng quan lại thông qua thi cử.
3.3. Đối ngoại:
Tiếp tục tiến công mở rộng lãnh thổ: Xâm chiếm Nội Mông, chinh phụ Tây Vực, chinh phục Bán đảo Triều Tiên, củng cố chế độ bảo hộ An Nam, đầu hàng Tây Tạng.
3.4. Xã hội:
Những xung đột xã hội lớn, gay gắt xảy ra vào cuối đời Đường.
Khởi nghĩa nông dân nổ ra => năm 907 Nhà Đường sụp đổ.
Dưới thời nhà Đường, Trung Quốc trở thành đế quốc phong kiến hùng mạnh nhất châu Á.
4. Chế độ phong kiến Trung Quốc dưới thời Minh, Thanh:
Đầu thế kỷ XIII, Thành Cát Tư Hãn cai trị một nhà nước phong kiến chuyên chế quân phiệt trên thảo nguyên Mông Cổ.
Năm 1271 Khu bi Lai (Hốt Tất Liệt) diệt nhà Tống, lên ngôi, lập ra nhà Nguyên (1271-1368): Trung Quốc trỗi dậy đánh bại chính sách áp bức, chia rẽ dân tộc của nhà Nguyên và lật đổ chế độ nhà Nguyên
Năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi ở Nam Kinh lập ra nhà Minh (1368-1644)
Kinh tế phục hưng và phát triển, mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện (có công trường thủ công gốm sứ Giang Tây – Tĩnh Đức chủ yếu) ; có nhiều nhà máy dệt, thương gia lớn, nhiều thành phố lớn như Bắc Kinh và Nam Kinh
Năm 1380 bỏ chức Thừa tướng, Thái úy thay vào đó là các Thượng Thư phụ trách các bộ (6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công), để hoàn chỉnh bộ máy quan lại
Hoàng đế tập trung mọi quyền lực và trực tiếp điều khiển quân đội.
Trước khi nhà Minh kết thúc, mâu thuẫn xã hội rất nghiêm trọng. Khởi nghĩa nông dân nổ ra (Lý Tự Thành là người dẫn đến sự sụp đổ của nhà Minh)
Cùng lúc đó, người Mãn Thanh ở miền bắc Trung Quốc tiến quân lật đổ Lý Tự Thành và lập ra nhà Thanh (1644-1911)
Nhà Thanh tiến hành đàn áp chính trị toàn quốc,
Nhà Thanh tiến hành đàn áp chính trị toàn quốc, áp bức và do chính sách bóc lột, nông dân lại bắt đầu nổi dậy; tư bản phương Tây lợi dụng nhà Thanh suy yếu để làm gián điệp xâm lược Trung Quốc.
5. Văn hóa Trung Quốc thời phong kiến:
Hệ tư tưởng:
Nho giáo đóng vai trò quan trọng vì là nền tảng lý luận và tư tưởng của hệ thống phong kiến Trung Quốc.
Phật giáo đặc biệt thịnh hành vào thời nhà Đường. Bắc Tống xây chùa, tạc tượng, in văn tự,…
Về Lịch sử:
Trở thành một ngành học độc lập do Tư Mã Thiên sáng lập. Sử Quán bắt đầu được thành lập từ thời nhà Đường.
Về Văn học:
Thơ Đường phản ánh toàn diện bộ mặt xã hội lúc bấy giờ và đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Với nhiều tên tuổi như:
Lúc đó tiểu thuyết mới phát triển vào thời Minh, Thanh. Nhiều tác phẩm lớn và nổi tiếng như Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thuỷ hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân, Hồng lâu mộng cùa Tào Tuyết Cần…
Toán học:
Quyển Cửu chương toán thuật thời Hán cho thấy các phương pháp tính diện tích và thể tích khác nhau… Tổ Xung Chi (thời Nam – Bắc triều) ông tìm ra 7 số lẻ của số pi.
Thiên văn học:
Phát minh lịch nông nghiệp, chia năm thành 24 giai đoạn, thì tiết để nông dân dựa vào đó mà biết khi nào thu hoạch. Trương Hành còn chế ra dụng cụ đo động đất gọi là địa động nghi
Y học:
Có nhiều thầy thuốc giỏi: Hoa Đà (thời Hán), người đầu tiên ở Trung Quốc biết dùng phẫu thuật, chữa bệnh. Tác phẩm Bản thảo cương mục của lý Thời Trân là một quyển sách thuốc rất có giá trị.
Kĩ thuật:
Có 4 phát minh quan trọng nhất, đó chính là: giấy, kĩ thuật in, la bàn và thuốc súng. Đây được coi là những cống hiến rất lớn đối với nền văn minh thế giới và nhân loại
Kiến trúc nghệ thuật đặc sắc:
Vạn lí trường thành là một trong bảy kì quan thế giới, những cung điện cổ kính, những bức tượng Phật sinh động… còn được lưu giữ đến ngày nay.