Sự tích về Bà Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn luôn là một câu chuyện thu hút nhiều độc giả đi tìm tòi, khám phá, vậy hãy để chúng tôi cùng bạn làm rõ về Bà Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn qua bài viết sau đây nhé
Mục lục bài viết
1. Chầu Đệ Nhị là ai?
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn hay còn gọi là Chầu Đệ Nhị hay Chầu Cô, là vị thánh đứng thứ hai trong hàng Tứ Phủ, chỉ sau Chầu Đệ Nhất, được coi là hóa thân của Chầu Đệ Nhị. Trong tứ cung, nàng là người có quyền lực nhất trong phủ Sơn Trang, nhưng hầu hết phường của nàng đều ở trong núi nên gần như có quyền lực cao nhất trong dòng họ chỉ sau Chầu Đệ Nhất.
2. Các sự tích về Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn:
2.1. Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn – người con gái Lê Thị lấy chồng họ Hà:
Theo thần tích họ Hà ở Đông Cuông Yên Bái còn ghi lại rằng: Công chúa Đông Quang (Đền Đệ Nhị) có tên thật là Lê Thị Kiểm, là vợ của Hà Văn Thiên, người dân tộc Tày ở Đông Cuông, được triều đình giao cai quản Đông Cương và các vùng phụ cận. Chồng bà là hậu duệ của Hà Đặc, Hà Bổng (chủ trại Quy Hóa) hy sinh trong cuộc chiến chống quân Mông Nguyên.
Họ sinh được một cậu con trai. Khi ông mất, bà Kiểm cùng con ở lại Đông Cuông, hết lòng giúp dân khai khẩn lập ấp, dạy dân bách khoa, trị bệnh cứu người. Chính vì sự linh thiêng của bà mà nhân dân trong vùng đã lập miếu thờ mẹ con bà ở tả ngạn và phu quân của bà ở hữu ngạn sông Hồng (Ghềnh Ngai) đối diện với miếu.
2.2. Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn theo ghi chép của Bách Thần Lục:
Theo Bách Thần Lục, sự tích Chùa Đệ Nhị được đồng nhất với sự tích Mẫu Thượng Ngàn – Mẫu Thượng Ngàn linh thiêng nhất xứ Bắc Lệ, Lạng Sơn. Đó là công chúa La Bình, con gái Sơn Tinh. Vốn là Thiên Thai Tiên Nữ, con vua Đế Thích, cai quản Mẫu Thượng Ngàn, uy quyền trên 81.000 cửa ải phương Nam.
2.3. Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn theo ghi chép của Lê Qúy Đôn:
Theo sử sách, Lê Qúy Đôn đã viết về nguồn gốc của Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn như sau:
“Văn Châu, một người thuyền hộ xã Kính Chủ, huyện Thanh Ba (nay thuộc địa phận Lâm Thao – Phú Thọ) là học trò Hiệu như Nguyễn Đình Kính. Giữa niên hiệu Bảo Thái (1720 – 1729) đi buôn ở Đông Quang (nay thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái). Bến sông này có miếu thờ Đông Quang Công Chúa vẫn nổi tiếng anh linh. Tục truyền Công Chúa là vợ Đại vương miếu Ngọc Tháp, huyện Sơn Vi (sau đổi là huyện Lâm Thao). Một hôm trời đã tối, Văn Châu thấy một người từ trong miếu Đông Quang đi ra đến chỗ thuyền đỗ, gọi tên mình và bảo rằng: “Khi thuyền nhà ngươi trở về qua miếu Ngọc Tháp, phiền nhà ngươi nói giúp là kính tạ Đại vương, Chúa bà đã sinh con trai rồi, gửi lời về báo để Đại vương biết.” Nói xong liền biến mất. Đường thủy mà thuyền buồm đi từ Đông Quang đến Ngọc Tháp phải ba, bốn ngày, thế mà ngày hôm ấy, Văn Châu bắt đầu đi từ sáng sớm mà đến giờ Thân đã tới Ngọc Tháp (chỗ này núi đá mọc nhô ra bến sông như hình ruột ốc, miếu ở trên núi, bên cạnh miếu có chùa Lăng Nghiêm). Văn Châu theo lời thầy dặn, đứng ở đầu thuyền nói lại rồi đi.“
3. Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn giáng đồng:
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn là vị thánh được thờ hoặc thờ thống nhất trong các hàng trong Tứ phủ thờ Bà, từ đồng đến lão, ai ai cũng đến viếng để chứng kiến cảnh đàn hạc Sơn Trang ban phúc cho các đệ tử trẻ vào mỗi dịp khai đàn mở phủ. Ngoài ra, khi tân binh vào phục vụ, họ thường quay lại đổi khăn lấy đồng mới. Và đặc biệt, vào ngày lễ Thượng Nguyên hàng năm thường có lễ “trình giầu”.
Khi đảnh lễ ngôi vị, đệ tử đã có gốc và đã lập bát hương thọ sẽ ngồi giữa chiếu, đầu chít khăn đỏ, trên người đội mâm phú quý (gồm cau, lá trầu, vỏ thuốc, thuốc). Người ngồi đội giầu thì ngồi trong đội phú phải đặt một mâm cỗ thịnh soạn 13.000 (thường là 15.000) để dâng lên chúa Sơn Lâm Sơn Trang và 12 cung nữ làm chứng. Khi đó, người chầu sẽ cầm bó mồi (hoặc hương) mở cổng, chứng kiến bữa ăn thịnh soạn rồi xin tiền nếu lấy được đồng âm dương tốt nhất (bằng đồng xu, đồng xu úp), nghĩa là Đức Phật Thánh chứng người ngồi áo phú quý, thì người mặc áo phú quý tạ ơn rồi đi ra ngoài cho người khác vào.
4. Văn khấn Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn chuẩn nhất:
4.1. Văn khấn Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn số 1:
Dâng văn tiên chúa thượng ngàn
Đông Cuông tuần quán giáng đàn chứng đây
Trên ngày gió cuốn rung cây
Dưới khe cá lội chim bay về ngàn
Canh khuya nguyệt lặn sao tàn
Chiếc thoi bán nguyệt khoan khoan chèo vào
Gập ghềnh quán thấp lầu cao
Khi ra núi đỏ lúc nào ngàn xanh
Thượng ngàn Đệ Nhị tối linh
Ngôi cao công chúa quyền hành núi non
Anh linh đã khắp tiếng đồn
Sấm ran mặt bể mưa tuôn đầu ghềnh
Da ngà mặt phượng long lanh
Mặt hoa tươi tốt tóc xanh rườm rà
Nhị hồng tuyết điểm mầu da
Cổ tay tựa ngà đầu vấn tóc mai
Vốn dòng công chúa Thiên Thai
Giáng sinh hạ giới quản cải Thượng Ngàn
Quản cai các lũng các lang
Sơn tinh cầm thú hổ lang khấu đầu
Khắp hoà tam thập lục châu
Chín từng khe suối một bầu tiêu dao
Dong chơi ngàn quế ngàn đào
Khi ra thác cái lúc vào thác con
Chim kêu vượn hót véo von
Chớp bể đồi đoạn mưa nguồn từng cơn
Khi nương gió lúc lại thác gièm
Khi bẻ cành quế khi vin cành hồng
Vui chơi nước nhược non bồng
Phố Cát đền Sòng sông Cả sông Thao
Lân rờn Phượng múa thấp cao
Ngày mây thấp thoáng trăng sao lững lờ
Nón buồm vai quẩy lẵng hoa
Đền khi phủ nọ vào ra chơi bời
Khi thanh vắng lúc lại êm trời
Ngồi trên đỉnh núi ghẹo người Hằng Nga
Tang tính tình thôi đọc lại ca
Bẻ bai giọng Xá ê a giọng Mường
Tiếng Kinh tiếng Mán tỏ tường
Lục châu quan hoả lúi lường líu lo
Dong chơi bát cảnh ngũ hồ
Đua chèo bẻ lái hò dô lại về
Khi chơi ngàn mái ngàn ngàn me
Ngàn giang ngàn nứa trúc tre ngàn vầu
Đôi cô Thổ Mán theo hầu
Cô xe chỉ thắm cô xâu hạt vàng
Sơn Lâm dọn quán bán hàng
Non xanh đủng đỉnh tuyết sương gieo hò
Khăn xanh áo lục nhởn nhơ
Khi vào ba dội lúc vô đường chèo
Môi son má phấn mỹ miều
Miệng cười hoa nở mọi chiều mọi hay
Đèn trăng quạt gió màn mây
Bóng thông che tán bóng mai tựa hình
Đi suối lúc lại về ghềnh
Đua chèo tiếng phách tiếng sênh reo hò
Chè tàu ba chén tính ưa
Thanh bông hoa quả ngự thừa lại ban
Yêu ai tài lộc chầu ban
Ghét ai chầu quở khôn ngoan được nào
Xem trong sự tích tân la
Vậy nên phúc đẳng hà sa vô cùng
Đệ tử dốc một lòng thành kính
Dâng bản văn trình chầu ngự giáng lâm
Mời chầu giáng phúc từ trung
Khuông phù đệ tử tăng long thọ trường
4.2. Văn khấn chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn bản số 2:
Chúa tiên loan giá phượng đình
Hộ phù luyện phép cứu sinh cho đời
Đấng anh linh nơi nơi ngưỡng phục
Chúa ban hành ngũ phúc cho dân
Tối tuần tối tú anh linh
Chúa thường giáng ngự trăng thanh bốn bề
Cảnh non xanh đi về hoa đón
Núi trập trùng vời vợi ngôi cao
Đông Cuông Tuần Quán ra vào
Lắng nghe suối chảy thấp cao đổ nguồn
Dạo bốn phương qua đền Trái Hút
Qua Bảo Hà thánh thót nhạc rung
Phố Lu dạo cảnh công đồng
Lao Cai ,Phố Mới ,Đầm Hồng dạo chơi
Mẫu Đông Cuông soi đời vời vợi
Tấc lòng thành vạn tội Mẫu Thương
Lòng thành thắp một tuần hương
Có Chầu Tuần Quán Đông Cuông giáng thề
Lầu gác khuê áo đào ngắn vạt
Vẻ long lanh kiềng bạc trâm cài
Anh linh dậy bốn phương trời
Có Chầu Tuần Quán giáng nơi điện tiền
Chầu về lai giáng bản đền
Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường
4.3. Bản văn chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn bản số 3:
Đêm Đông Cuông sương rơi lác đác
Nghe tiếng gió rừng xào sạc canh khuya
Dế kêu đồi núi vắng tanh
Xa nghe xào sạc năm canh gió gào
Con đường mòn dẫn lối vào hang động
Chầu giáng sinh trên đất tổ Đông Cuông
Năm thân ngày mão giờ dần
Rủ nhau chiêm bái trên đền Đông Cuông
Dọc sông hồng rì rào nước chảy
Xuôi theo dòng cho tới đền Mậu A
Con tìm vào đền mẫu Đông Cuông
Con sông uốn khúc chảy quanh bản làng
Đền thờ Chầu lều tranh mái lá
Cột chạm rồng hóa đá rêu phong
Con dâng văn tiên Thánh thượng ngàn.
Dâng văn tiên Thánh thượng ngàn
Đông Cuông tuần quán giáng đàn chứng đây
Trên ngày gió cuốn rung cây
Dưới khe cá lội chim bay về ngàn
Canh khuya nguyệt lặn sao tàn
Chiếc thoi bán nguyệt khoan khoan chèo vào
Gập ghềnh quán thấp lầu cao
Khi ra núi đỏ lúc nào ngàn xanh
Thượng ngàn Đệ Nhị tối linh
Ngôi cao công chúa quyền hành núi non
Anh linh đã khắp tiếng đồn
Sấm ran mặt bể mưa tuôn đầu ghềnh
Da ngà mặt phượng long lanh
Mặt hoa tươi tốt tóc xanh rườm rà
Nhị hồng tuyết điểm mầu da
Cổ tay tựa ngà đầu vấn tóc mai
Vốn dòng công chúa Thiên Thai
Giáng sinh hạ giới quản cải Thượng Ngàn
Quản cai các lũng các lang
Sơn tinh cầm thú hổ lang khấu đầu
Khắp hoà tam thập lục châu
Chín từng khe suối một bầu tiêu dao
Dong chơi ngàn quế ngàn đào
Khi ra thác cái lúc vào thác con
Chim kêu vượn hót véo von
Chớp bể đồi đoạn mưa nguồn từng cơn
Khi nương gió lúc lại thác gièm
Khi bẻ cành quế khi vin cành hồng
Vui chơi nước nhược non bồng
Phố Cát đền Sòng sông Cả sông Thao
Lân rờn Phượng múa thấp cao
Ngày mây thấp thoáng trăng sao lững lờ
Nón buồm vai quẩy lẵng hoa
Đền khi phủ nọ vào ra chơi bời
Khi thanh vắng lúc lại êm trời
Ngồi trên đỉnh núi ghẹo người Hằng Nga
Tang tính tình thôi đọc lại ca
Bẻ bai giọng Xá ê a giọng Mường
Tiếng Kinh tiếng Mán tỏ tường
Lục châu quan hoả lúi lường líu lo
Dong chơi bát cảnh ngũ hồ
Đua chèo bẻ lái hò dô lại về
Khi chơi ngàn mái ngàn ngàn me
Ngàn giang ngàn nứa trúc tre ngàn vầu
Đôi cô Thổ Mán theo hầu
Cô xe chỉ thắm cô xâu hạt vàng
Sơn Lâm dọn quán bán hàng
Non xanh đủng đỉnh tuyết sương gieo hò
Khăn xanh áo lục nhởn nhơ
Khi vào ba dội lúc vô đường chèo
Môi son má phấn mỹ miều
Miệng cười hoa nở mọi chiều mọi hay
Đèn trăng quạt gió màn mây
Bóng thông che tán bóng mai tựa hình
Đi suối lúc lại về ghềnh
Đua chèo tiếng phách tiếng sênh reo hò
Chè tàu ba chén tính ưa
Thanh bông hoa quả ngự thừa lại ban
Yêu ai tài lộc chầu ban
Ghét ai chầu quở khôn ngoan được nào
Xem trong sự tích tân la
Vậy nên phúc đẳng hà sa vô cùng
Đệ tử dốc một lòng thành kính
Dâng bản văn trình chầu ngự giáng lâm
Mời chầu giáng phúc từ trung
Khuông phù đệ tử tăng long thọ trường