Đoàn kết tương trợ là sự giúp đỡ, cảm thông sẻ chia cùng nhau để giúp nhau vượt qua những khó khăn. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có rất nhiều câu ca dao tục ngữ hay về đề tài đoàn kết tương trợ. Bài viết dưới đây giới thiệu một số câu ca dao tục ngữ tiêu biểu về đề tài này.
Mục lục bài viết
1. Tương trợ đoàn kết là gì?
Đoàn kết tương trợ là sự giúp đỡ, cảm thông sẻ chia cùng nhau để giúp nhau vượt qua những khó khăn. Tinh thần đó được thể hiện xuyên suốt chiều dài thời gian, không chỉ phạm vi trong nước mà còn ở phạm vi thế giới. Tương trợ đoàn kết luôn là một truyền thống quý báu được nhân dân ta đời đời gìn giữ và phát huy.
2. Biểu hiện đoàn kết tương trợ trong thời kì kháng chiến:
Biểu hiện của tinh thần đoàn kết không hề khó để ta bắt gặp. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp ngay trong thời kì kháng chiến.
Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi trọng xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, lấy đó làm cơ sở để tập hợp quần chúng đoàn kết, toàn tâm toàn ý thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, chiến lược “phát huy tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để tiến lên xã hội cộng sản”; “đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”. Thực tế cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam tuy số lượng đảng viên không lớn, vào thời điểm lãnh đạo, chỉ đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chỉ có khoảng 5.000 đảng viên, nhưng luôn là một khối đoàn kết vững chắc. Đó là cơ sở để Đảng ta phát huy tối đa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm.
Cùng với đoàn kết nội bộ, Đảng ta không ngừng xây dựng, củng cố khối liên minh công nhân, nông dân và coi trọng đoàn kết, tập hợp các lực lượng khác như thanh niên, phụ nữ, học sinh, trí thức, thanh niên. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (tháng 5-1941), Đảng ta quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, nhằm “đoàn kết các giới, đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo, chính trị. Để cùng nhau hoạch định cuộc đấu tranh giải phóng và tồn vong của dân tộc, coi lợi ích quốc gia dân tộc là trên hết, Việt Minh “sẵn sàng giơ tay chào đón cá nhân hay tập thể, không phân biệt quốc tế hay dân tộc, với điều kiện họ thành tâm nguyện ý”. Đánh đuổi Nhật, Pháp để xây dựng một nước Việt Nam tự do, độc lập”.
Dưới ngọn cờ của Việt Minh, quần chúng nhân dân được tổ chức thành các tổ chức cứu quốc: Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, v.v. Mặt trận Việt Minh không chỉ phục vụ cho cứu quốc, phục vụ quần chúng. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được mở rộng, củng cố mà còn là phương tiện nâng lực lượng của khối lên một tầm cao mới, chất lượng mới – khối đại đoàn kết tập hợp trí tuệ của nhân dân, có tổ chức và lãnh đạo. Qua đó, sức mạnh khởi nghĩa và tinh thần sáng tạo của nhân dân được nhân lên, tạo thành lực lượng hùng mạnh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân ta đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại. Ngày 2-9-1945, trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, cả nước bước vào thời kỳ “kháng chiến kiến quốc”. Đây là thời điểm vô cùng khó khăn khi chúng ta phải đối phó với nạn đói, nạn dốt, giặc ngoại xâm. Giành chính quyền đã khó, giữ còn khó hơn. Là nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc. Quốc hội được thành lập gồm đại biểu của các tầng lớp nhân dân, từ công nhân, nông dân, tiểu tư sản, đồng bào các dân tộc thiểu số ở các ngành, lĩnh vực văn hóa, tôn giáo… Mặt trận nhân dân dân tộc thống nhất với nhiều tên gọi khác nhau như: Mặt trận Liên Việt , Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò tập hợp sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, giúp nhân dân ta giành thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954); chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), giành độc lập, thống nhất đất nước.
3. Biểu hiện của đoàn kết tương trợ trong giai đoạn hiện nay:
Tinh thần này tiếp tục được phát huy trong thời kì chống đại dịch. Điều này có lẽ được thể hiện rõ nhất trong thời kì chống dịch Covid. Kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để sớm kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, tạo sức mạnh tổng hợp để đẩy lùi đại dịch COVID-19.
Ngày 30/3/2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra Lời kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, triển khai quyết liệt, có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Trong lời kêu gọi, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng viết: “Với tinh thần đặt sức khỏe, tính mạng của nhân dân lên trên hết, tôi kêu gọi đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí, hành động, triển khai thực hiện quyết liệt, có hiệu quả các chủ trương của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. một pháo đài trên mặt trận phòng, chống dịch COVID-19.”
4. Ý nghĩa của sự đoàn kết tương trợ:
Cuộc sống luôn đặt ra cho con người muôn vàn khó khăn, thử thách cần phải vượt qua. Con người không thể một mình mà có thể vượt qua tất cả. Vì vậy, chúng ta phải đoàn kết. Đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh to lớn đưa con người đến thành công. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Bên cạnh tinh thần đoàn kết, chúng ta cũng cần sự giúp đỡ của người khác để tiến bộ và vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Tinh thần tương trợ giúp con người có sức mạnh để chiến thắng trong công việc và cuộc sống.
Tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau giúp chúng em dễ dàng hòa nhập, hợp tác với mọi người xung quanh. Những người có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ người khác thường được mọi người yêu mến. Chỉ khi đứng giữa tập thể, người ta mới có cơ hội thể hiện và khẳng định mình. Sức mạnh của mỗi cá nhân tạo nên sức mạnh của tập thể. Và ngược lại, sức mạnh tập thể bảo vệ và phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân.
Tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cũng là truyền thống quý báu cần được giữ gìn. Nhờ đoàn kết, tương trợ mà dân tộc ta đã vượt qua bao gian nan, thử thách, đánh thắng nhiều kẻ thù hùng mạnh để giữ nước, xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no, tươi đẹp như thế này.
Để tiến bộ và thành công trong học tập cũng như công việc, mọi người cần phải luôn rèn luyện bản thân để trở thành người biết đoàn kết, tương trợ. Bởi chỉ khi gắn mình với tập thể, với cộng đồng, con người mới được che chở, bảo vệ và nhận được sự giúp đỡ của người khác. Đồng thời, tập thể, cộng đồng là nơi để mọi người thể hiện và khẳng định giá trị của mình.
5. Những câu ca dao, tục ngữ về đoàn kết tương trợ:
1. Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn
2. Đồng thanh tương ứng,
Đồng khí tương cầu
3. Khi đói cùng chung một dạ,
Khi rét cùng chung một lòng
4. Môi hở răng lạnh
5.Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ
6. Đồng cam cộng khổ
7. Đất giúp đất thành tường, người giúp người thành thành.
8. Mũi tên đầy túi, voi giẫm không gãy
Sức mạnh đoàn kết còn hơn cả sức voi
Chèo đèo lội suối phải hợp tác tương trợ
Qua sông qua suốt phải đồng tâm đồng lòng.
9. Bắc Nam là con một nhà.
Là gà một mẹ, là hoa một cành
Nguyện cùng biển thẳm non xanh
Thương nhau nuôi chí đấu tranh cho bền
10. Tay bắt tay, chung lòng chung sức
Quyết diệt thù cứu quốc bạn ơi
Lòng em khôn tỏ hết lời
Kìa gương phấn dũng rạng ngời nước non.
11. Một hòn chẳng đắp nên non
Ba hòn đắp lại nên cồn Thái Sơn.
12. Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao
13. Thiếu cơm thiếu áo chẳng màng
Thiếu tình đoàn kết, xóm làng không vui
14. Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.
15. Anh em cốt nhục đồng bào,
Kẻ sau người trước phải hào cho vui.
16. Dây bầu bám chặt lấy giàn
Dân làng giữ chặt lấy làng mới hay
Đồng tâm ai sợ chi ai
Mình đông, Tây ít sức tài ai hơn
17. Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hoà thuận hai thân vui vầy.
18. Tuy rằng xứ bắc, xứ đông
Khắp trong bờ cõi cũng dòng anh em.
19. Chị ngã, em nâng
20. Nhường cơm sẻ áo
21. Yêu nhau chín bỏ lòng người
22. Chia ngọt sẻ bùi
23. Anh em cốt nhục đồng bào
Vợ chồng cùng nghĩa lẽ nào không thương.
24. Con chim khôn cả đàn cùng khôn, con chim dại cả đàn cùng dại.
25. Buôn có bạn, bán có phường
26. Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần
27. Tướng chuộng nhiều quân, dân chuộng nhiều người.
28. Dựng nhà cần nhiều người, đánh giặc cần nhiều sức.
29. Gương không có thuỷ gương mờ,
Thuyền không có lái lửng lơ giữa dòng.
Mong sao nghĩa thuỷ tình chung,
Cho thuyền cập bến gương trong ngàn đời.
30. Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
31. Một mình nghĩ không tròn,
Một thân lo không xong
32. Thương người như thể thương thân
33. Bẻ đũa chẳng bẻ được cả nắm
34. Chết cả đống còn hơn sống một người.
35.
Bắc Nam là con một nhà
Là gà một mẹ, là hoa một cành
Nguyện cùng biển thẳm non xanh
Thương nhau nuôi chí đấu tranh cho bền.