Tình cha con là tình cảm thiêng liêng, tình cảm đó đã bị chiến tranh ngăn cách, gây ra những bị kịch như câu chuyện của Ông Sáu và bé Thu. Tuy nhiên, tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu vẫn không hề đổi thay, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận tình cảm của nhân vật ông Sáu dành cho con gái:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Trước khi bé Thu nhận cha:
– Tình thương con của ông Sáu:
Nỗi nhớ nhung, sự hồi hộp khi gặp em và nỗi đau khi bị con từ chối.
Ông Sáu cố gắng ở gần bé Thu để được gọi là “bố”.
Ông Sáu tức giận và bất lực đánh đứa trẻ.
– Tình cảm của bé Thu đối với bố:
Bé Thu kiên quyết không nhận ông Sáu là cha khi thấy ông không giống người trong bức ảnh chụp chung với mẹ bé
Cô bé phản ứng quyết liệt, thậm chí xấc xược, ngang ngược để bảo vệ tình yêu của mình dành cho cha.
Thu hối hận và trằn trọc khi được người nước ngoài giải thích.
Cảnh người con nhận cha và cuộc chia tay đầy nước mắt.
Phần còn lại của câu chuyện
– Ông Sáu ra chiến trường không khỏi nhớ con và ân hận vì đã đánh Thu.
-Trước khi hi sinh, ông Sáu vẫn cố gắng dồn chút sức lực cuối cùng để gửi lại chiếc lược, nhờ đồng đội trao lại cho con gái.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Những bài mẫu cảm nhận về tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu:
2.1. Bài mẫu 1 – Bài mẫu cảm nhận về tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu:
Nói đến tình cảm gia đình, người ta thường nói đến tình mẫu tử, nhưng có một thứ tình cảm không thua kém gì tình cha con. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn hay khắc họa tính cách nhân vật và tình cha con sâu nặng.
Ông Sáu, hình ảnh cao cả của người cha đã hy sinh cả cuộc đời để gìn giữ tình phụ tử bất diệt, mặc cho chiến tranh đã tàn phá ngoại hình, tình cảm ấy chưa bao giờ phai nhạt trong con người này.
Nhớ cha, thương cha vô cùng, Tám năm xa quê đi chinh chiến, Thu mới tám tuổi, Ông Sáu đi chiến tranh lâu nay mới có dịp về thăm quê, gặp lại con gái đầu lòng, một điều mà anh vô cùng nhớ nhung, ông coi đó là động lực để anh cố gắng chiến đấu. Nhưng chẳng may Thu không chịu, vừa chạy vừa tìm mẹ khiến ông Sáu vô cùng buồn bã, thất vọng và đau đớn.
Và trong 2 ngày ngắn ngủi được nghỉ cùng con, ông Sáu đã cố gắng hết sức để không đi đâu, chỉ quanh quẩn ở nhà cùng con chăm sóc nhưng bé Thu không nhận bố. Tưởng chừng khi về đến nhà, con gái sẽ chạy đến ôm chầm lấy ông, chia sẻ những điều mà ông đã xa cách bấy lâu, nhưng tình cha con trở nên bất lực khi ông Sáu tát Thu một cái, sau đó Thu chạy sang nhà bà ngoại.
Nhưng rồi cuộc vui nào cũng phải tàn, dù không được con chấp nhận và yêu thương nhưng với cha, khoảng thời gian ngắn ngủi ấy cũng làm ông đã vơi đi nỗi nhớ con sau 8 năm xa cách. Cho đến lúc chia tay, nhìn con gái trìu mến, ông chạnh lòng. “Đôi mắt người cha giàu tình thương, độ lượng, có phần thất vọng, sợ con không đón nhận tình yêu của mình. Nhưng rồi có một sức mạnh nào đó khiến Thu gọi ông bằng tiếng khóc nghẹn ngào. Thu hôn tất cả những gì có thể, hôn lên vết sẹo trên mặt cha, ông Sáu một tay ôm lấy bé, một tay lấy khăn lau nước mắt cho bé, một tay hôn lên tóc bé, có thể nói nước mắt của bé là nước mắt của hai cha con, giọt nước mắt vui sướng, hạnh phúc của người cha khi cảm nhận được tình yêu máu thịt từ đứa con của mình.
Đặc biệt, tình cảm của ông dành cho con gái là những lúc rảnh rỗi, ông Sáu đều dành thời gian làm những chiếc lược ngà cho con. Tình yêu thương ông Sáu được thể hiện một cách tập trung và sâu sắc ở phần sau của chiếc lược.
Dù đã thực sự xa con nhưng khi trở về căn cứ, cảm giác nhớ nhung xen lẫn day dứt, ân hận đã ám ảnh ông suốt nhiều ngày vì trong cơn tức giận đã đánh con. Ông Sáu không nghĩ mình sẽ đánh con vì ông là một người cha hiền lành, tốt bụng, coi trọng tình cha con nhưng có lẽ vì quá thương con và bất lực nên anh mới hành động như vậy. Rồi lời dặn của con gái: “Bố về, mua cho bố chiếc lược ngà nghe con!”, đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm chiếc lược ngà cho con gái mình. Đó là sự thể hiện tình cảm cha con trong sáng, sâu nặng.
Có được ngà voi, ông sung sướng biết bao, ông sung sướng như đứa trẻ được quà, rồi dồn hết tâm trí vào việc làm lược, cưa răng, đánh bóng, chạm khắc… một cách tỉ mỉ, cần mẫn, tỉ mỉ. Tình thương con đã biến người lính thành một nghệ sĩ – người nghệ sĩ chỉ sáng tạo một tác phẩm trong đời. Như vậy, không chỉ là chiếc lược đẹp, quý mà nó còn là chiếc lược gắn kết tất cả tình phụ tử mộc mạc mà thân thương, sâu nặng, giản dị mà tuyệt vời!
Nhưng chiến tranh thật tàn khốc, nó là thứ nghiệt ngã khiến tình cha con sâu nặng trở nên đáng thương, chưa kịp trao chiếc lược ngà cho con gái thì người cha đã hy sinh trong một trận càn. Trước khi từ biệt con, vẫn không quên nhờ người mang con gái đến giúp, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược và trao lại cho người bạn như một nghĩa cử trao gửi tính mạng, một sự tin tưởng, một lần cuối cùng.
Có lẽ chiến tranh là thứ ngăn cách chúng ta với nhau, nó gây ra nỗi đau thể xác và tinh thần cho đồng loại. Ông Sáu đúng là người cha chịu nhiều thiệt thòi nhưng vô cùng độ lượng, hết lòng vì con. Một người cha để Thu yêu thương và tự hào đến hết cuộc đời.
2.2. Bài mẫu 2 – Bài mẫu cảm nhận về tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu:
Nguyễn Quang Sáng quê ở An Giang, chủ yếu viết về cuộc sống và con người Nam Bộ. Tác phẩm “Chiếc lược ngà” là tác phẩm tiêu biểu của ông. Bằng việc tạo ra những tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý, truyện đã xúc động thể hiện tình cha con sâu nặng, cao cả của ông Sáu.
Trong chiến tranh, con người phải chịu nhiều mất mát, thiệt thòi, hy sinh về tình cảm gia đình. Ông Sáu rời quê đi chiến đấu khi đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Sau 8 năm xa cách, ông mới có dịp trở về thăm nhà nhưng trớ trêu thay, bé Thu lại không nhận ông là cha của mình. Phút đầu gặp mặt, Thu tỏ ra nghi ngờ, lảng tránh, thậm chí sợ hãi bỏ chạy vì: “vết sẹo bên má phải khi chạm vào thì đỏ ửng, co giật trông rất đáng sợ”. Sau khi ở nhà, Thu kiên quyết không nhận ông là cha, mặc dù ông đã cố gắng hết sức để tiếp cận và an ủi ông. Có những lúc bí quá, nó chỉ bảo: “Mời vào ăn cơm”, “cơm sôi, múc nước đi”, “cơm sôi, nhão rồi”. . . Trong bữa ăn, ông Sáu gắp một miếng trứng cá lớn, không ngờ con gái phản ứng quyết liệt: “bỗng ném miếng trứng cá vào bát, cơm văng tung tóe cả đĩa”. Sau khi bị đánh vào mông, Thu về nhà bà và cũng “không quậy phá”. Sự bướng bỉnh, ương ngạnh của Thu không hoàn toàn đáng trách bởi em còn quá nhỏ để hiểu được những khó khăn, vất vả trong hoàn cảnh chiến tranh xa xôi và những người lớn trong gia đình chưa kịp chuẩn bị tinh thần cho em. Thu không nhận ông Sáu là cha vì trên má ông có một vết sẹo dài không giống như tấm ảnh ông chụp với mẹ mà em biết. Điều đó chứng tỏ tình cảm của bé Thu đối với bố rất sâu nặng – bé chỉ thể hiện tình cảm sâu nặng với bố khi biết chắc đó là bố của mình.
Buổi sáng cuối cùng trước khi ông Sáu đi, thái độ của bé Thu bỗng thay đổi hẳn. Ngay trong đêm bỏ nhà ra đi, Thu được bà nội giải thích về vết sẹo. Đứa bé hiểu ra, hối hận và ân hận vô cùng: “nghe bà nội nói, nó nằm im lăn lộn, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Khi anh Sáu nhìn con để từ biệt, “đôi mắt mênh mông của Thu chợt xao xuyến” tình cha con bị dồn nén bỗng bùng lên mạnh mẽ, vội vàng. Thu hét lên tiếng bố: “Tiếng bố xé sự im lặng và xé ruột mọi người”. Hành động của Thu cũng thay đổi. “Em chồm lên, vòng tay qua cổ bố. Thu hôn khắp người bố, hôn lên tóc, hôn xuống cổ, hôn lên vai và cả hôn vào vết sẹo dài trên má”. Mọi hành động, thái độ của Thu đều bắt nguồn từ tình yêu thương dành cho người cha mà cô luôn kính yêu, ngưỡng mộ và không gì có thể thay thế được. Tình cảm của bé Thu bền chặt, sâu sắc và cũng dứt khoát, rõ ràng. Ở Thu có sự ương ngạnh đến bướng bỉnh, nhưng vẫn có sự hồn nhiên, ngây thơ của một đứa trẻ. Với tâm hồn nhạy cảm, trái tim nhân hậu và trái tim chan chứa tình yêu trẻ thơ, Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến tận cùng những biểu hiện tình cảm của nhân vật để khắc họa một cách sinh động và tinh tế.
Chủ đề của truyện không mới nhưng tác giả thành công vì đã khai thác được tình cha con trong những tình huống cảm động, rối rắm. Cách lựa chọn người kể, tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí cùng với việc miêu tả tinh tế, sâu sắc diễn biến tâm lí nhân vật, đặc biệt là tâm lí trẻ thơ đã giúp văn bản có được chỗ đứng riêng.
Câu chuyện chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con sâu nặng mà còn gợi cho người đọc sự suy ngẫm, trân trọng trước những mất mát đau thương mà chiến tranh đã gây ra cho biết bao gia đình. Đó là lý do tại sao chúng ta nên quý trọng cuộc sống yên bình như ngày nay.
3. Bài cảm nhận về tình cảm của ông Sáu dành cho con gái đạt điểm cao nhất:
Truyện “Chiếc lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng) được viết trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhưng chủ yếu hướng đến tính nhân văn trong hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh. Đoạn trích “Chiếc lược ngà” thể hiện tình cha con thắm thiết, sâu nặng của ông Sáu và bé Thu.
Sau nhiều năm ở chiến khu, ông Sáu trở về nhà với tình cha và niềm khao khát cháy bỏng được gặp con. Nhưng ngay từ giây phút đầu tiên, điều anh mong muốn nhất chính là được nghe con gái gọi “Ba ơi!” đã không được nghe thấy. Đứa trẻ hoàn toàn ngơ ngác, lạnh nhạt, coi anh như người xa lạ. Với niềm yêu thương con gái, càng chờ đợi tình yêu của con gái, con gái ông càng cố tình chống cự. Điều đó, khiến anh đau “hai bàn tay như muốn chặt đứt”. Có những tình huống tưởng chừng không thể không lì lợm hơn, Thu đành phải gọi “ba”. Nhưng nó vẫn không chịu cất tiếng gọi “Ba” mà ông Sáu đang chờ đợi.
Hành động trẻ con, cộc lốc của bé Thu dành cho ông Sáu đã khiến ông Sáu, bạn ông Sáu và người đọc vừa đau lòng vừa suy nghĩ. Mong mỏi được nghe một tiếng “ba” từ con gái thân yêu của anh lại khó đến như vậy sao.
Phản ứng tâm lý của Thu là hoàn toàn tự nhiên. Thu còn quá nhỏ để hiểu được những khó khăn xảy ra trong chiến tranh. Chính người lớn cũng không chuẩn bị cho Thu cách đối phó với sự bất thường. Có như vậy người đọc mới cảm nhận được tình cảm chân thành, sâu sắc, mãnh liệt của Thu dành cho bố – người mà Thu biết trong ảnh, người bố mà Thu đã khắc sâu trong tim từ bức ảnh chứ không phải người mà Thu biết.
Khi được bà ngoại gỡ bỏ khúc mắc trong lòng, về lai lịch của vết sẹo, Thu mới biết đó thực sự là bố mình. Nỗi tiếc thương dồn nén, cùng nỗi nhớ nhung, niềm khao khát được gặp cha bùng lên dữ dội, dữ dội trong giờ phút trước giờ ra đi. Tiếng “ba!” vỡ ra từ sâu thẳm trái tim cô. Tiếng khóc mà cha anh đã chờ đợi bao nhiêu năm. Tiếng kêu thấu tim mọi người. Ông Sáu vui mừng khôn xiết, không cầm được nước mắt. Nuốt chửng, ào ạt, níu lấy cha, níu giữ tình yêu mà cha hằng mong mỏi. “Nó hôn khắp người bố. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết sẹo dài trên má bố”, “Tay ôm chặt cổ bố quá, bố không được nghĩ”. vòng tay ôm lấy bố, dang hai chân ôm lấy con giá, đôi vai nhỏ run run”.
Đối với một ông Sáu, đó là tiếng “ba” đầu tiên và là tình yêu cuối cùng mà ông ấy được nghe từ con trai mình! Ở chiến khu, ông đã cố gắng hết sức, cẩn thận, tỉ mỉ để làm nên chiếc lược ngà. Ông đặt tất cả tình thương của người cha vào đó. Chiếc lược trở thành vật thiêng liêng, là niềm an ủi để ông “gỡ rối” và nuôi dưỡng tình cha con. Ông thường “lấy chiếc lược ra ngắm nghía rồi chải lên tóc cho chiếc lược thêm bóng mượt”. Tình thương con đã biến người lính thành một nghệ sĩ – người nghệ sĩ cả đời chỉ sáng tác một tác phẩm. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, ông Sáu vẫn nhớ như in chiếc lược mà ông nhờ đồng đội truyền lại cho con – nghĩa cử trao lại là ước mong của ông mãi mãi giữ gìn tình cha con.
Truyện “Chiếc lược ngà” đã xúc động miêu tả tình cha con sâu nặng giữa ông Sáu và con trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ của chiến tranh. Hình ảnh chiếc lược gắn liền làm thổn thức biết bao trái tim máu thịt, khẳng định giá trị nhân văn sâu sắc và vẻ đẹp thiêng liêng!