Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài không chỉ là một hình cá nhân mà còn là hình ảnh biểu trưng cho những người dân lao động miền núi Tây Bắc. Tham bài viết dưới đây về cảm nhận về nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
Mục lục bài viết
1. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong các tác phẩm văn học:
Để thấu hiểu về những hình ảnh, thân phận người phụ nữ trong văn học đương đại lúc bấy, trước tiên cần nắm được bối cảnh xã hội sau năm 1945.
Như đã biết sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, tuy đã giành được độc lập nhưng dân tộc ta vẫn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, gian khổ. Nền kinh tế bị đô hộ lạc hậu sản xuất đình trệ dẫn đến nạn đói tàn bạo khiến hơn 2 triệu người chết, đất nước bị bao vây bởi nhiều thế lực phản động và quân thù.
Trong bối cảnh thân phận con người nói chung và người phụ nữ nói riêng là vô cùng nhỏ bé và thấp kém như người phụ nữ trong tác phẩm Vợ nhặt trỏ nên vô cùng đáng thương như sợi rơm cọng cỏ bên đường có thể được người ta nhặt về. Họ chỉ được coi là công cụ lao động biết nói là những người bị coi thường. Nhưng sâu thẳm trong đời sống nghèo nàn ấy họ vẫn có những phẩm chất, đạo đức cao, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, họ vẫn luôn ước mơ khát vọng về cuộc sống như hình ảnh người phụ nữ trong bài thơ Bánh trôi nước của
2. Cảm nhận về nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ:
Đề tài miền núi tuy là chủ đề cũ nhưng luôn được các tác giả khai thác làm mới lại để khắc họa nên hình ảnh nhân vật. Với nhà văn
Trước hết Mị là cô gái con nhà nghèo nhưng lại rất xinh đẹp, chăm chỉ và hiếu thảo. Mị được nhiều chàng trai theo đuổi bởi tài thổi sáo. Ngay cả khi đứng trước sự việc có thể trở thành con dâu gắn nợ Mị vẫn một lòng mong muốn được tiếp tục làm việc để trả nợ.
Nhưng dù thế nào thì kết cụ Mị vẫn bị bắt về làm dâu nhà thống lí. Từ khi bắt đầu về làm dâu Mị phải đối mặt với bi kịch vô cùng đau khổ. Người ta lúc nào cũng thấy Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Từ năm này qua đến năm khác Mị vẫn chôn chân trong căn phòng nhỏ kín mít với cửa sổ bé tý nhìn ra bên ngoài một cách mờ ảo đến nỗi không biết là sương hay là khói. Ý thức về cuộc sống, hạnh phúc của Mị dường như đã bị tê liệt. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị không bày tỏ, cũng không phản kháng gì và “chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi”.
Thế những trong Mị vẫn luôn có khát khao được sống. Trong ngày Tết khi mọi người đi chơi, Mị cũng uống rượu và dường như khi ấy Mị sống lại. Kể cả đến khi tiệc rượu đã tan nhưng Mị vẫn không muốn thoát khỏi cái niềm vui nhỏ ấy: “Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà.” Trong tâm trạng phơi phới ấy Mị muốn đi chơi, Mị lấy cái váy hoa treo trong vách, chuẩn bị đi chơi thì A Sử trở về khiến Mị phải quay về thực tại, Nhưng ngay cả khi bị đọa đầy ấy bên trong con người Mị đang bừng lên mạnh mẽ sức sống “Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.
Và trong khoảnh khắc ấy ý thức về cuộc đời số phận đến trong tâm trí Mị. Mị thương chính mình cũng như những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan…Mị bắt đầu nhớ lại câu chuyện:” Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết, cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, day dứt từng mảnh thịt.” Đã từ lâu lắm rồi ý thức về sự sống cái chết Mị mới cảm nhận được,
Thật dữ dội làm sao cái sức sống trong Mị càng trở nên mãnh liệt hơn khi thấy hình ảnh A Phủ bị trói đứng. Nếu như lúc trước khi thấy cảnh ngộ A Phủ Mị hãy còn thái độ thản nhiên, thì sau khi thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị thương cảm và đồng cảm với anh. Giọt nước mắt ấy như là tiếng gọi thiêng liêng của tình đồng bào và ý thức giai cấp muốn đứng lên phản kháng đối với Mị: “Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng như thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cỡ chừng này là đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Những câu văn miêu tả dòng suy nghĩ của Mị tuy ngắn gọn nhưng nó là kết quả của cả một quá trình phát triển nhận thức lâu dài trong Mị. Trước hoàn cảnh ấy Mị cảm thấy căm hờn bọn độc ác tàn nhẫn với người khác và thương cảm cho người con trai bị trói cũng như số phận của mình đã từng bị đối xử như thế. Trên cơ sở đó, Mị quyết liệt cởi trói cho A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài, chạy sang Phiềng Sa.
Như vậy có thể thấy hành động trên đây của Mị có thể xuất phát từ tấm lòng lương thiện cũng có thể là từ sự thôi thúc cấp bách của hoàn cảnh. Mị không chỉ cởi trói giải thoát cho A Phủ mà còn là sự giải thoát cho chính cuộc đời của mình. Và hình ảnh cuối câu chuyện thật đẹp khi hai con người cùng khổ ấy đã vùng dậy một cách quyết liệt để đi theo tiếng gọi của cách mạng.
3. Cảm nhận về nhân vật Mị ngắn gọn nhất:
Trong văn xuôi hiện đại Việt Nam thế kỷ XX, đề tài miền núi khá nổi bật. Tuy đề tài không mới nhưng tác giả luôn có dịp vận dụng vấn đề rất sâu sắc, nhấn mạnh hình tượng nhân vật. Mỗi tác giả có những cách nhìn khác nhau, và Tô Hoài là tác giả đồng cảm với những vất vả của người dân miền núi, đặc biệt là người phụ nữ tiêu biểu trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, đó là một điểm riêng rất đặc biệt của Tô Hoài.
Trong Vợ Chồng A Phủ Mị được khắc họa lên là một cô gái có số phận éo le, tủi phận nhưng phẩm chất đẹp vô cùng. Cô gái xinh đẹp và tài hoa này sống trong thời đại phong kiến đầy rẫy những hủ tục vô lý và áp bức. Cha mẹ khất nợ nên cô bị bắt để trả nợ, chủ nợ là Thống Lý Pá Tra đòi bắt cô về làm dâu vì tội khất nợ. Từ đó, những đau khổ, tủi nhục của cô gái này bắt đầu xảy ra. Nói là về làm dâu, nhưng thực chất cô là nô lệ của thống đốc. Mị trở thành một cô gái vô cảm với mọi thứ, bị tê liệt ý thức, sống bất cần với những thói quen gượng ép, đánh đập vũ phu, hành hạ dã man của người chồng bạo lực là con trai thống lý Pá Tra, khiến Mị đau đớn không nói nên lời.
Từ khi cuộc sống của Mị bị cầm chân trong nhà Thống Lí thì những giấc mơ của Mị đã biến mất, phai mờ dần trong tâm trí cô. Cô bị đối xử còn không bằng một con vật, cuộc sống của cô rơi vào sự đau khổ cực cùng. Về làm dâu một gia đình giàu có, những tưởng mình sẽ có cuộc sống sung sướng, đủ đầy nhưng không phải vậy, đó chỉ là vỏ bọc mà thôi. Ngày này qua ngày khác, Mị phải ở trong bếp, nơi Mị làm việc từ sáng đến tận khuya. Năm này qua năm khác Mị chỉ quanh quẩn trong căn phòng tối, ánh sáng hắt ra từ ô cửa sổ nhỏ, chẳng biết là sương hay là khói. Mị, một thiếu nữ đang ở tuổi xanh, tuổi trăng tròn với bao hy vọng và yêu đời bỗng trở thành một người đàn bà dần héo úa. Mị làm việc không nghỉ, từ sáng đến tối, “con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả ngày lẫn đêm”. Có thể thấy, số phận của người thiếu nữ yêu đời, tràn đầy ước mơ, hy vọng, bị vùi dập giờ chỉ còn là một cô gái đau khổ vô tri, không còn tình cảm. Sau nhiều đau khổ, kháng cự, cô quyết định tìm đến cái chết bằng lá ngón để giải thoát tất cả. Giờ đây Mị chẳng còn tha thiết gì sống nữa.
Dù bên ngoài Mị như chẳng còn quan tâm đến thế giới này nhưng trong tâm hồn cô gái trẻ này luôn cháy bỏng khát khao được tự do, được là chính mình, được sống cuộc sống của riêng mình. Khát vọng này giống như ngọn lửa nhỏ cháy trong đống tro tàn, chỉ một làn gió cũng thổi tắt được. Bị ép đến đường cùng, vì thương cha mẹ mà phải hy sinh thân mình để cứu gia đình, để rồi phải sống cuộc đời tăm tối, đau khổ.
Đêm mùa xuân năm ấy lại đến rộn ràng, náo nức khắp đất trời với tiếng nhảy múa, ca hát, thổi sáo hòa trong bản giao hưởng thiên nhiên. Lúc này ở trong nhà nghe thấy tiếng của mùa xuân vọng vào, Mị giờ đây không còn lầm lì trong cảm xúc chai sạn nữa, mà cảm xúc đã được đánh thức trở lại. Mị trở lại với tâm hồn yêu đời tự do xưa kia. Tiếng sáo văng vẳng trong đầu Mị những giai điệu vui tươi, cô hát một bài hát để nhớ về ngày xưa. Không chịu được, Mị liền uống rượu cho quên hết ưu phiền, hối hận. Lúc đó Mị cảm thấy dường như mình đang trẻ lại, Mị vui vẻ và Mị quyết định đứng dậy và chuẩn bị đi ra ngoài. Nhưng tất cả đã kết thúc khi A Sử nhìn thấy và trói Mị vào một cây sào. Khoảnh khắc đó, nỗi đau dâng lên từ tâm hồn đến thể xác. Mị muốn thoát ra nhưng A Sử đã dập tắt và bóp nghẹt khát vọng mong manh ấy.
Một lần nữa sức sống trong Mị đã được trỗi dậy một cách mãnh liệt khi nhìn thấy A Phủ – một tôi tớ của Thống Lí đang bị trói vào cột. Nước mắt của A Phủ rơi xuống hõm má đã thức tỉnh Mị phải vùng dậy, phải đứng lên để đòi lấy quyền được sống, được yêu thương, tự do cho chính mình.
Tô Hoài đã khắc họa rất tuyệt vời diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị. Chính ngòi bút sắc sảo ấy đã khiến người đọc cảm nhận và thấu hiểu được tâm hồn, cảm xúc của nhân vật, làm bật lên vẻ đẹp tâm hồn của người con gái này.
4. Bài văn cảm nhận về nhân vật Mị chọn lọc hay nhất:
Tô Hoài là một trong những minh chứng rõ nét nhất về tinh thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề của một người viết văn xuôi ở Việt Nam.
Ông đã hơn nửa thế kỷ cầm bút viết.Ông được chủ tịch nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I – 1996). Nhà văn Tô Hoài đã gửi đến chúng ta một khối lượng tác phẩm ấn tượng: hơn 100 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau. Tuy nhiên, những trang viết thực sự đạt chất lượng cao và gây ấn tượng tượng mạnh mẽ của người đọc của cây bút này thể hiện ở ba mảng đề: đề tài miền núi Tây Bắc, đề tài vùng ven thành Hà Nội và các đề tài dành cho thiếu nhi. Nói riêng về đề tài miền núi Tây Bắc, truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trong tập truyện Tây Bắc (1953) chính là một trong những thành tựu nổi bật của nhà văn Tô Hoài. Trong truyện ngắn này, nhà văn đã thành công trong việc xây dựng xuất sắc hình tượng nhân vật Mị, đặc biệt là đoạn cô bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra cho đến khi trốn thoát khỏi Hồng Ngài.
Chúng ta có thể thấy rằng Mị là một cô gái con nhà nghèo nhưng xinh đẹp, tài hoa, yêu đời và khát khao tự do. Vì ngày xưa, khi lấy vợ là mẹ Mị, bố Mị không có đủ tiền cưới nên phải đến vay nhà thống lý là bố của Pá Tra bây giờ. Hằng năm ông phải trả lãi ruộng ngô cho chủ nợ. Cho đến khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được hết nợ. Người vợ chết rồi cũng chưa trả hết nợ. Mặc dù vậy, khi đến tuổi yêu đương, Mị được rất nhiều chàng trai mê say theo đuổi vì sắc đẹp cũng như vì phẩm hạnh, suốt đêm lúc nào cũng có người đứng thổi sáo xung quanh vách hoặc thổi sáo đi theo Mị. Mị cũng là cô gái thổi sáo giỏi, hát hay. Mỗi khi nghe thấy tiếng sáo, lòng Mị háo hức, dường như được sống lại cũng thiết tha bổi hổi rồi ngồi nhẩm thầm, Ngân nga bài hát của người đang thổi. Mặc dù khát khao được sống như thế nhưng cũng có lúc Mị muốn tự sát trong lần trốn chạy về nhà bố. Nhưng vì nghĩ đến người cha già, nếu như mình bỏ chạy thì bố mình sẽ phải trả nợ, Mị không cam tâm làm vậy nên cô lại lủi thủi quay trở lại. Và cũng vì ham được sống nên Mị không thể nào chấp nhận kiếp sống tủi nhục, không bằng con vật này rồi phải chết đi không có nghĩa lí gì. Nhưng đối với Mị, thời điểm ấy, cái chết là phương tiện duy nhất để giải thoát Mị khỏi cuộc đời tăm tối này.
Không chỉ vậy, Mị còn là cô gái sớm gặp phải đau khổ, bất hạnh đến cùng cực đồng thời cô còn là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần. Một đêm khuya nghe tiếng gõ tường, tưởng là chỗ hẹn của người tình nên Mị dỡ bức tường gỗ ra và A Sử đã bắt cô làm vợ để làm dâu gạt nợ cho nhà Thống lý Pá Tra. Bao nhiêu ước mơ tươi đẹp của mùa xuân đều bị chôn vùi. Mị đau buồn có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Mị thậm chí đã hái lá ngón rừng giấu trong áo rồi trốn về nhà để chào cha lần cuối cùng rồi tự tử. Khi nghe lời than thở và giải thích của người cha ốm yếu, Mị không đành lòng chết bởi nếu Mị chết thì bố Mị còn đau khổ hơn bây giờ gấp nhiều lần. Vì vậy, Mị đành phải trở lại nhà thống lý để làm nô lệ. Mị bị chà đạp gần như chỉ còn là công cụ biết nói, Mị không còn có cảm xúc, thậm chí còn không nhận thức mình là ai nữa: Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa (…). Còn ngựa con trâu làm có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, còn được nghỉ, còn đây thân đàn bà con gái trong cái ngôi nhà này thì vùi đầu vào làm việc cả ngày lẫn đêm như không biết ngày và đêm nữa vậy. Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa đến nỗi dường như Mị bị chai lì mọi cảm giác đến mất cả đời sống ý thức. Cái buồng Mị nằm kín như bưng từ đầu tới chân, không có một cái cửa nào mà chỉ có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng trăng trắng không biết là sương hay nắng. Mị đã suy nghĩ rằng mình sẽ cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông này mà nhìn trông ra, cho đến bao giờ chết thì chết thôi.
Thế nhưng, Mị là một cô gái có sức sống tiềm tàng, một khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Không có sự bạo tàn nào vùi dập, trói buộc nổi, nhất là khi được ngoại cảnh tác động. Khi mùa xuân tràn về các làng Mèo, trai gái tụ tập bên nhau nô đùa, nhảy múa, thổi sáo gọi bạn tình, Mị đã sống lại những chuỗi ngày tự do. Ngồi trong căn phòng tăm tối, Mị lén uống rượu uống ừng ực từng bát mà bên tai vẫn văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng. Dù chẳng năm nào A Sử cho cô đi chơi tết, nhưng cô rất khao khát được đi như bao cô gái khác cùng trang lứa.
Hành động của Mị tới chỗ góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, chứng tỏ cô không cam chịu bóng tối ngột ngạt, u ám của kiếp nô lệ phong kiến. Trong phút giây, Mị đã quên đi cảnh ngộ thực tại để hành động theo tiếng gọi giục giã, tha thiết, rạo rực, cháy bỏng từ trái tim khát khao hạnh phúc, tình yêu của bản thân mình, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách chuẩn bị đi chơi. Bất ngờ, A Sử đã tàn nhẫn trói đứng cô vào cột nhà, quấn luôn tóc trên cột. Nhưng cái kiểu trói thời trung cổ ấy của A Sử cũng không dập tắt được lòng ham sống vẫn âm ỉ ,tiềm tàng trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo du dương trầm bổng, tượng trưng cho sức sống mùa xuân của tuổi trẻ mạnh đến nỗi tuy Mị bị trói nhưng vẫn không biết mình đang bị trói. Tiếng sáo đã đưa cô đi theo những cuộc chơi và Mị cố vùng bước đi trong cảnh bi thảm: tay chân đau không cựa được. Tuy cả đêm ấy Mị phải trói đứng, khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức nhưng trong lòng cô vẫn nồng nàn tha thiết nhớ cuộc vui. Thật dữ dội làm sao cái sức sống ấy đặc biệt hình ảnh A Phủ bị trói đứng một lần nữa lại đánh thức nơi Mị nỗi tủi nhục của thân phận “không bằng con ngựa” của mình đồng thời khơi dậy lòng trắc ẩn tiềm tàng trong cô. A Phủ là một chàng trai tràn trề sinh lực, lao động giỏi, con nhà nghèo, bố mẹ chết sớm, lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê, do cùng bọn con trai làng sinh sự đánh nhau với A Sử vào dịp chơi tết. A Phủ bị “bắt sống, trói gô chân tay lại” khiêng về nhà Thống lý. Từ đó, anh phải đi ở trừ nợ cho nhà Pá Tra. Trong một lần chăn bò, chẳng may hổ ăn thịt mất một con bò, Pá Tra đẩy A Phủ vào cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rôi dây mây quấn từ chân lên vai, sang hôm sau Pá Tra quảng thêm một vòng thòng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không cúi, không còn lúc lắc được nữa”. Nhìn cảnh ngộ A Phủ lúc đầu, Mị hãy còn thái độ thản nhiên, sau đó, trông thấy thứ ngôn ngữ câm lặng phát ra từ dòng nước mắt của A Phủ, cô xúc động, thương cảm và đồng cảm với anh. Đồng thời, giọt nước mắt ấy như tiếng gọi thiêng liêng của tính giai cấp và ý thức phản kháng đối với Mị.
Vì thế, Mị liền hành động một cách táo bạo. Cô cởi trói cho A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài, chạy sang Phiềng Sa. Lúc ấy, trong cảnh nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng A Phủ Đương biết có người bước lại. Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phì từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng: “đi ngay…” rồi Mị nghẹn lại, A Phủ bỗng khụy xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật qsức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm, nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy (..) và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Hành động trên đây có xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân”, từ sự thôi thúc cấp bách của cảnh ngộ hiện tại, từ tiếng gọi thiêng liêng, bất tử của cuộc sống độc lập – tự do. Cô cởi trói cho A Phủ cũng là từ cởi trói xiềng xích đang đè nặng lên chính cuộc đời của mình, Cứu A Phủ là Mị đã cứu mình một lúc vượt qua hai tầng địa ngục đày đọa con người một cách dã man: tầng địa ngục phong kiến và tầng địa ngục mê tín – thần quyền. Thật đáng biểu dương làm sao cho hình ảnh hai con người trẻ tuổi, nhựa sống bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách mạnh mẽ.