Vợ nhặt là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Kim Lân. Tuy không được miêu tả quá nhiều nhưng hình tượng nhân vật người vợ bù nhìn đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc. Sau đây là bài văn mẫu viết về cảm nghĩ khao khát được sống của người vợ, mời các bạn tham khảo!
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận về khát vọng sống của người Vợ nhặt:
Đặt vấn đề:
–
– Vợ nhặt là truyện ngắn thành công nhất của Kim Lân, nằm trong tập Những con chó xấu xí xuất bản năm 1962. Bối cảnh mà nhà văn chọn để xây dựng truyện là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Trong nhiều truyện kể về tác phẩm, ông tâm sự rằng ông viết về nạn đói để khẳng định mục đích này: Điểm sáng mà tôi gửi gắm trong truyện là những suy nghĩ của tôi về phẩm giá con người. Tôi nhận thấy: dù nghèo khó, người ta vẫn giữ kín đạo đức của mình.
– Giới thiệu nhân vật người vợ bù lu bù loa.
Giải quyết vấn đề:
A. Cảm nhận về khát vọng sống của nhân vật người vợ Nhặt:
– Khát vọng sống của nhân vật trước khi theo không về nhà Tràng được thể hiện ở khát vọng được sống qua cơn đói khát (cảnh người đàn bà bám lấy Tràng, xin ăn; chấp nhận theo không về nhà Tràng…).
– Khát vọng về hạnh phúc gia đình, về tương lai (thể hiện qua hành động cùng mẹ Tràng quét nhà; dọn dẹp nhà cửa, cùng ăn bữa cháo cám bên Tràng và bà Tứ,…).
– Nghệ thuật thể hiện khát vọng sống của nhân vật người vợ nghèo.
Nhận xét về giá trị nhân đạo mà nhà văn thể hiện qua nhân vật người vợ nhặt:
Khát vọng sống của nhân vật người vợ Nhặt thể hiện sự phát hiện và trân trọng của Kim Lân đối với những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân trong nạn đói: Trong cảnh khốn cùng, người nông dân vẫn thể hiện được phẩm chất tốt đẹp của mình. Đây cũng là biểu hiện quan trọng nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.
Kết thúc vấn đề:
– Nêu bật đóng góp quan trọng của nhân vật vào việc thể hiện tư tưởng tác giả, chủ đề tác phẩm.
– Thể hiện sự cảm thông, trân trọng của Kim Lân đối với những mảnh đời nhỏ bé, bất hạnh.
3. Cảm nhận về khát vọng sống của người vợ nhặt trong Vợ nhặt:
3.1. Đặt vấn đề:
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông hướng ngòi bút của mình vào cuộc sống khổ cực của người lao động, làm nổi bật vẻ đẹp cuộc sống bình dị, thủy chung của những con người bằng cả tấm lòng và sự hiểu biết sâu sắc. Vì vậy, ông được mệnh danh là “nhà văn của ruộng đồng”, “một lòng đi, về với đất, về với dân”.
Vợ thằng Kình là một trong những truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của ông. Nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này là người vợ điên cuồng
3.2. Giải quyết vấn đề:
Khát vọng sống trước khi kết thúc của nhân vật được thể hiện ở khát vọng được sống qua nạn đói:
– Khi anh Trang hay bông đùa “em muốn theo anh về nhà thì ra đẩy xe bò với anh rồi mình về” thì chị kia im bặt” (tức là im lặng luôn).
– Thị đồng ý mà không có sự do dự hay băn khoăn. Trong khi đó, Trang là ai, tốt xấu ra sao, nguồn gốc ra sao? Thị nào hay biết. Chỉ vài cái bánh là theo tràng về ngay. Thị theo Trang có phải chỉ vì miếng ăn? Thị tưởng là dễ dàng, như vậy tốt?
– Hành động thực hiện theo ý của Thị xuất phát từ nhu cầu mưu cầu cuộc sống, từ lòng ham sống.
+ Thị bất chấp mọi thứ để kiếm ăn, ăn để tồn tại.
+ Thị chấp nhận đi theo không Tràng. Đó là ý thức theo đuổi cuộc sống. Gần chết, một người phụ nữ không từ bỏ cuộc sống. Ngược lại, cô vẫn chăn gối vươn lên để xây dựng mái ấm gia đình.
⇒ Sự lạc quan yêu đời của các nhân vật là một loại mỹ phẩm rất quý giá. Như Kim Lân đã nói: “Trong hoàn cảnh éo le, dù cận kề cái chết nhưng những người nông dân nghèo khổ này vẫn không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, vẫn hy vọng và tin tưởng vào tương lai sau này”.
Đằng sau vẻ ngoài lôi thôi, nhếch nhác, “Nhân Vật Thị” là một người phụ nữ rất chu đáo, đảm đang và luôn khát khao một gia đình hạnh phúc, vì tương lai:
Trên đường về nhà chồng tâm trạng của Thị thay đổi thấy rõ.
– Nếu như anh Tràng vui vẻ tự mãn, mặt hếch lên tự đắc khi cưới được vợ thì người phụ nữ lại: Xấu hổ trước những cái nhìn “tò mò”, trước những lời bỡn cợt, lo lắng của người ở trên đường về.
Lúng túng, thiếu tự tin “chân gai bước vào chân kia… cái nón ngứa che nửa khuôn mặt”.
– Về đến nhà chồng, thấy “ngôi nhà trống hoác nằm cheo leo trên mảnh vườn cỏ dại mọc bừa bãi”, nàng “thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ chiếc phao cô vừa bám vào đã bị rách.
– Trong tiếng thở dài ấy có cả nỗi lo cho tương lai ngày mai, có cả nỗi lo và trách nhiệm của chị về hoàn cảnh gia đình chồng. Phải chăng chị có ý thức trách nhiệm với chồng, cùng chồng xây dựng gia đình. Tấm lòng của cô quý giá biết bao.
– Vào nhà, Thị trở lên thận trọng “ngồi trên giường”. Thị có ý cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào hai lần). Đây là hình ảnh đẹp về người con dâu rất ngoan trong mối quan hệ với mẹ chồng.
Bên trong vẻ ngoài sạm nắng, vô tâm ấy là một người phụ nữ dịu dàng, đứng đắn, biết quan tâm.
Sau đêm tân hôn, người phụ nữ đó đã thay đổi hoàn toàn tâm trạng và tính cách.
– Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa cho ngăn nắp.
– Nếu thị trước đây là một cô gái chua ngoa, chém đá, chặt chém bao nhiêu thì Thị của ngày hôm nay thật là nhẹ nhàng, rối rắm bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ sự đổi thay kỳ diệu ấy: “Thị hôm nay khác lắm, thấy rõ một người đàn bà dịu dàng, đứng đắn không còn vẻ sôi nổi, dửng dưng như những lần Tràng gặp ở ngoại tỉnh nữa”. Câu nói này đã ghi lại Cảm xúc chân thật của Tràng trước sự thay đổi tích cực của vợ Liệu tình yêu chân chính có phép nhiệm màu có sức mạnh cảm hóa nàng?
– Bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, dù bữa cơm chỉ là “cháo cám, mỗi người được ăn hai bát ”, mặc dù phải ăn cháo nhưng chị vẫn vui vẻ mãn nguyện.
– Thị đưa sự sống, tương lai của mình cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng nộp thuế, Thị nói với mẹ chồng: “Bên Thái Nguyên, trên Bắc Giang người ta không nộp thuế nữa, phá cả kho thọc của Nhật chia cho dân đói. “
– Sự am hiểu qua câu nói của Thị này dường như đã giúp Tràng nhận ra con đường phía trước mà mình sẽ chọn “trong trí Tràng vẫn thấy đoàn người đói khổ đi trên đê Sộp, trước mặt là lá cờ đỏ”. Qua đó, ta thấy nhân vật Thị, “cô dâu mới” cũng là một sứ giả của cách mạng.
– Viết về sự thay đổi tâm tính của vợ nhặt, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, đánh giá cao những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo xưa. Tình cảm nhân đạo của nhà văn được thể hiện ở đây.
– Thông qua nhân vật người vợ Nhặt – một nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Kim Lân, nhà văn đã thể hiện ý nghĩa nhân
Nghệ thuật thể hiện khát vọng sống của nhân vật người vợ Nhặt:
– Đưa nhân vật vào sự kiện li kì trong truyện
– Diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế
– Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, phù hợp với tính cách nhân vật
– Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, giàu kịch tính…
– Khát vọng sống của nhân vật thể hiện sự phát hiện và đánh giá cao của Kim Lân về những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân trong nạn đói: trong cảnh đói nghèo, người nông dân vẫn thể hiện được phẩm chất tốt đẹp của mình. phẩm chất tốt. Đây cũng là biểu hiện quan trọng nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.
3.3. Kết thúc vấn đề:
Qua hình ảnh người vợ “nhặt” người đọc hiểu và đồng cảm với cảnh ngộ đáng thương, bị rẻ rúng của những người lao động trong nạn đói, tố cáo bọn thực dân, phát xít và khát khao được sống bần hàn. Tác phẩm thể hiện sự cảm thông, trân trọng của Kim Lân đối với những mảnh đời nhỏ bé, bất hạnh.
4. Khát vọng sống mãnh liệt của người vợ nhặt:
4.1. Cảnh ngộ:
Không: quê quán, tên, tuổi. Thị không có tên gọi cụ thể, người ta gọi là “bà”, “thị”. Số phận, cuộc đời của “Thị” tiêu biểu cho số phận, cuộc đời của những người phụ nữ khác. Nạn đói rời bỏ quê hương sống cuộc đời lang thang, chật vật, vô gia cư. Thị bị dẫn đến bước đường cùng, trở thành con số 0 vô nghĩa trong cuộc đời.
Niềm vui: Đón mưa rơi. Trong hoàn cảnh đói khát, kiếm việc làm nuôi sống bản thân lại càng khó khăn hơn. Thị mỏi mòn chờ đợi, “ngồi chơi xơi nước” chờ “nhặt những hạt rơi vãi, hoặc ai có việc gì thì gọi làm”.
Qua cảnh đói kém: Dáng người tiều tuỵ, tính tình hợm hĩnh, thiếu tình nghĩa, coi lời bông đùa của Tràng là lời cầu hôn.
– Ngoại hình của mụ được Kim Lân miêu tả qua chi tiết “mặt cạo trọc xám”. Chi tiết ấy khiến người đọc hiểu rằng nàng là một người phụ nữ không có nhan sắc. Nạn đói khiến cô “gầy đầu”, thậm chí còn tệ hơn. Ngay cả quần áo xịn cũng không có, quần áo “tả tơi như tổ đỉa”, mặc khổ sở.
– Thị chặt đá, “sở khanh” quở trách khi Tràng giễu cợt, nói chuyện với Tràng bằng những câu suồng sã, lối ăn nói cộc cằn. Thị trơ trẽn đến mức “chạy qua” khi thấy Trang đang ngồi ở quán nước, thị “hờn dỗi” vui vẻ và gợi ý Trang mời mình đi ăn. Khi Trang mời ăn cơm, cô sẵn sàng “ăn miếng trả miếng”, ăn một cách nhiệt tình, ăn không ngừng, không thở và không quan tâm đến xung quanh. Tuy nhiên, Thị vẫn là người có bản chất nhân hậu khi chủ động giúp Tràng đẩy xe bò lên dốc.
-> Thị chấp nhận đi theo Tràng khi chưa hiểu gì về anh và hoàn cảnh gia đình anh. Trở thành vợ người qua đường để thoát khỏi đói rét và tội ác của bọn thực dân phát xít.
4.2. Niềm tin, khát vọng sống và bản chất tốt đẹp của người lao động:
Trên đường về: Đứng trước cái đối Thị sợ hãi, mê mẩn khi rơi vào cảnh ngộ, phải đi theo không một ai xa lạ để thoát khỏi cái chết đang rình rập “mũ che nắng nghiêng che nửa khuôn mặt”. Đến nhà Tràng: lộ rõ thân phận, lịch sự, có góc khuất. Thị có ý “nén tiếng thở dài” và thất vọng khi nhìn thấy cảnh ngộ của Tràng. Thị đã đánh cược cả cuộc đời khi quyết định dựa dẫm vào Tràng để rồi nhận ra chỗ dựa này cũng rất bấp bênh. Dù vậy, cô vẫn nén lòng, bước vào cuộc sống mới với tinh thần trách nhiệm của một người vợ. Đối diện với bà Tứ, “cô cúi gằm mặt, tay mân mê vạt áo tả tơi”. Thị tủi thân, xấu hổ với Tú, tự nhận thấy thân phận thấp kém của người phụ nữ khi tự nguyện không về nhà chồng. Trước sự săn sóc, yêu thương của ông Tư dành cho mình “Ngồi xuống đây. Xuống đây đỡ chân cho bà”, Thị “đóng cửa, đứng nguyên chỗ cũ”. Khi cảm nhận được tình yêu và tình người, cô hoàn toàn thay đổi, trở lại là một người phụ nữ “dịu dàng đoan chính”.
Sáng hôm sau: Thị hóa người vợ hiền, đảm đang, tháo vát. Bổn phận làm vợ của cô được đánh thức. Chắc chắn Thị đang thu dọn nhà cửa, dọn dẹp vườn tược đem lại một không khí mới cho cuộc sống của gia đình Tràng. Tính cách của cô ấy đã hoàn toàn thay đổi, bản chất và vẻ đẹp tâm hồn của cô ấy đã được hồi sinh.
Bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng: nàng tế nhị, không nỡ để mất niềm vui nghèo khó của người mẹ nghèo tốt bụng. Đó là bát “cháo” của mẹ chồng, chị nhìn rõ là cám nhưng chị vẫn “bình chân như vại”, ăn ngon lành miếng ăn định dành cho người ăn. Trang không nhị phân như thị trường, “quay lưng ngay” khi vừa cho miếng dán vào miệng.
Thị đưa ra một tia hy vọng qua câu chuyện cướp kho thóc của mình. Đi nhiều nơi, thấy nhiều, hiểu nhiều. Câu chuyện “trên Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không đóng thuế nữa. Người ta còn phát hiện ra kho hàng Tết của Nhật, cho người đói”, chị mở ra một niềm vui mới giữa cái đói, cái nghèo cho cả gia đình. mở đường cho thực tế của buổi tối.
Qua nhân vật người vợ bù nhìn, Kim Lân muốn thể hiện thiết tha giá trị nhân văn: trong cơn mê tăm tối nhất, con người vẫn có niềm khao khát sống, khát khao hạnh phúc, vẫn cố thắp lên ngọn lửa. tình yêu và định hướng về tương lai.
5. Cảm nhận khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật vợ nhặt và Mị:
5.1. Giới thiệu chung:
Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông là một nhà văn viết truyện ngắn tài năng. Thế giới nghệ thuật của Kim Lân chủ yếu tập trung vào cảnh nông thôn và hình ảnh người nông dân. “Vợ híp” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, nằm trong tập “Con chó xấu xí”.
Qua hai tác phẩm Tô Hoài và Kim Lân đã chỉ ra những nét đặc sắc trong tác phẩm miêu tả vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ.
5.2. Phân tích:
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”:
*Thân phận của Mị:
– Mỵ là cô gái dân tộc Mèo (H’Mông) kết tinh những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ miền núi. Nhưng dưới nhiều tầng lớp áp bức hà khắc và tàn bạo của cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến, tôi gần như tê liệt với cuộc sống.
* Khát vọng sống của tôi:
Tô Hoài đã phát hiện ra khát vọng sống, khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc, tự do ẩn chứa trong tâm hồn mình. Chính sức sống ấy là tiền đề quan trọng giúp Mị thoát khỏi ngục tù ngục tù tìm về Phiềng Sa, được cán bộ A Châu hướng dẫn để trở thành người tự do, làm chủ cuộc đời, chiến đấu, giải phóng quê hương. như một yếu tố tất cả.
* Sức sống tiềm ẩn và tâm hồn nổi loạn của Mị trong đêm tình mùa xuân:
– Những yếu tố đánh thức ý thức và khát vọng sống trong Mị: cảnh ngày xuân ở Hồng Ngải, tiếng sáo gọi tình, mùi rượu nồng ngày tết.
– Sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng trong Tôi:
+ Tôi thấy sảng khoái trở lại, lòng bỗng vui như những đêm giao thừa trước…
+ Tôi nghĩ lại cái bẫy của mình, lần thứ hai nghĩ đến cái chết -> Muốn được tự do, kết thúc cuộc đời bi đát, địa ngục trần gian.
+ Tôi thức dậy với ý thức và khát khao: Tôi thấy mình trẻ lại, muốn đi chơi, thắp sáng căn phòng – thắp lên niềm khao khát sống, chuẩn bị ra ngoài -> nữ tính trở lại… Tôi thôi làm rùa “trẻ con”… ”, muốn làm con chim bay trên bầu trời tự do.
+ Khát vọng là Su đứng vững, sức sống mùa xuân trong lòng em vẫn không bị ràng buộc, ào ạt. Hồn tôi vẫn bay theo tiếng sáo đến những cuộc vui mùa xuân.
=> Sức sống trong tôi có thể chưa bị dập tắt, nó như tàn tro nhưng vẫn còn hơi ấm, chỉ cần gió thoảng qua, nó sẽ bùng nổ để khám phá.
* Sức sống tiềm ẩn và tinh thần chiến đấu mạnh mẽ của Mị trong đêm đông cắt dây trói A Phủ:
Nguyên nhân: Mị thấy những giọt nước mắt lấp lánh lăn dài trên đôi gò má xám đen” của A Phủ. Nó khiến Mị từ cõi vĩnh hằng trở về cõi mộng. Nhớ lại những kí ức đau thương – lúc bị trói, thật đau đớn! Từ thương mình đến cảm thông, thương người .
Thức tỉnh ý thức:
– Nhận ra dấu hiệu của cái chết, phán đoán “Đêm mai người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” -> thêm thương xót và so sánh “người kia đã làm gì mà chết”
– Lần đầu tiên tôi biết kẻ thù của mình cũng như những kiếp người đau khổ như mình: “Chúng nó thật độc ác”.
– Nghĩ đến tình cha con, Pá Tra kể lại việc mình cởi trói cho A Phủ, bắt A Phủ đứng dưới sàn cho chết nhưng Mị không sợ -> tình yêu chiến thắng nỗi sợ hãi, xua tan nỗi nhớ thương .
– Cắt dây trói cho A Phủ -> Hành động bộc phát, xuất phát từ tình thương nhưng cũng chính Mị cắt dây trói cho mình, chiến thắng cường quyền, thần quyền.
– Rồi Mị “hốt hoảng”, “bỏ chạy” đuổi theo A Phủ, nói “A Phủ thả tôi ra!… Tôi chết ở đây!” -> bắt đầu cuộc hành trình từ “thung lũng đau thương” đến “cánh đồng vui” trên mảnh đất Phiềng Sa.
=> Hành động của em có ý nghĩa to lớn vì nó là sự hồi sinh, là biểu tượng của tinh thần kiên cường đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.
* Qua cách xây dựng cách giải quyết vấn đề độc đáo và miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật Mị, Tô Hoài đã đặt ra vấn đề về khát vọng tự do, hạnh phúc chân chính của người phụ nữ miền núi và con đường giải phóng của họ. phải đi từ tự phát đến tự giác, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”:
* Người vợ hờ hiện lên như một nạn nhân tiêu biểu của nạn đói khủng khiếp năm 1945.
– Nhân vật không tên, không lai lịch…chỉ là một thân phận trôi nổi giữa cuộc đời.
– Cái đói đã tàn phá cả vẻ đẹp hình thể lẫn vẻ đẹp nữ tính của người phụ nữ, biến chị trở thành kẻ đầu đường xó chợ, trơ trẽn đến mức sẵn sàng không theo một ai.
Nhưng đằng sau hành động than thở ấy là một khát vọng sống cháy bỏng:
– Người vợ cõng Tràng về nhà không phải chỉ vì cái đói đang đuổi theo mà còn xuất phát từ ước mơ được sống trong một gia đình ấm cúng, vì cảm động trước tấm lòng thành kính đến lạ lùng mà đói khát. Vì vậy trên đường về nhà với Tràng Thi, nàng đã tỏ ra yêu thương, quan tâm, chu đáo. Thấy căn lán dột nát, người đàn bà ở lại chia sẻ cả kiếp bần hàn với Tràng chứ không nỡ bỏ đi.
– Hôm sau, chị dậy thật sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa. Người đọc cũng dễ dàng nhận ra sự thay đổi đó: nếu như hôm qua thị chua ngoa, rạch mặt, phá phách thì hôm nay thị dịu dàng đến bối rối: “Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là một người đàn bà hiền lành, đứng đắn không còn thấy gì là chát và sốt ruột như những lần Tràng gặp ngoài tỉnh”.
– Bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, dù bữa cơm chỉ có “Cháo cháo, mỗi người hai bát húp hết”, lại phải ăn cháo, nhưng bị cám dỗ chị vẫn vui vẻ mãn nguyện.
– Thị đã đem lại sức sống và những thông tin mới về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe nói hết thuế, cô nói với mẹ chồng: “Bên Thái Nguyên, trên Bắc Giang người ta không đóng thuế nữa, người ta còn phát hiện kho báu của Nhật để cho người đói nữa”. Sự thấu hiểu này của chị dường như đã giúp Tràng nhận ra con đường phía trước mà mình sẽ chọn, “trong trí Tràng vẫn thấy đoàn người đói khổ đi trên đê Sộp, trước mặt là lá cờ đỏ”.
* Đặt chị vào một sự kiện đặc biệt khó khăn, khai thác sâu tâm lý nhân vật cùng với việc khắc họa nhân vật qua lời nói, cử chỉ, hành động, nhà văn Kim Lân đã cho ta thấy khát vọng sống, khát vọng sống. lẽ sống và ý thức vươn lên để chiến thắng cuộc sống vô cùng tàn ác của phố thị.
5.3. Điểm tương đồng và khác biệt của hai tác phẩm:
Điểm tương đồng:
Thể hiện vẻ đẹp tâm hồn con người. Các nhân vật nữ của Tô Hoài và Kim Lân được các nhà văn quan sát, miêu tả theo khuynh hướng hiện thực đi lên nên số phận của các nhân vật này đi từ bóng tối ra ánh sáng, “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”.
Cả hai tác giả đều có tài giải quyết và miêu tả tâm lí nhân vật.
Khác biệt: Do cách nhìn khám phá riêng, độc đáo của mỗi tác giả trước hiện thực cuộc sống nên mỗi nhân vật cũng có những biểu hiện khác nhau về số phận và vẻ đẹp tâm hồn cũng đa dạng, phong phú, hấp dẫn. Tôi là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi khắc nghiệt, cụ thể là cường quyền, thần quyền; Vợ Tràng bị cái đói đe dọa đến tính mạng. Nhưng họ không mất hy vọng vào tương lai và luôn ẩn chứa sức sống của một thây ma.
5.4. Đánh giá:
Tô Hoài và Kim Lân là hai nhà văn tài năng của nền văn học Việt Nam, đặc biệt là ở việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật và khám phá những nét đẹp trong tâm hồn họ. Ở hai ngòi bút ấy cũng luôn tràn đầy lòng nhân ái, yêu thương và kính trọng con người.