Bài thơ Viếng lăng Bác là một tác phẩm thể hiện nghệ thuật biểu đạt ở mức độ cao. Tác phẩm này sử dụng thể thơ, nhịp điệu, ngôn ngữ và hình ảnh thơ một cách điêu luyện.
Mục lục bài viết
1. Cảm nhận khổ 1 bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương :
Bác Hồ luôn là đề tài được nhắc đến trong thơ ca Việt Nam. Người này đã truyền cảm hứng cho nhiều nhà thơ và nhà văn để tạo ra các tác phẩm của họ. Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất và rực rỡ nhất trong thơ ca Việt Nam. Có nhiều tác phẩm viết về Người, về những cuộc viếng thăm, gặp gỡ Người, nhưng “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương được cho là mang lại cảm xúc sâu sắc nhất. Bài thơ này diễn tả cảm xúc của một người con ở miền Nam xa xôi khi được trở về thăm Bác Hồ sau khi Người ra đi.
Viễn Phương là một nhà thơ xuất hiện nhiều trong văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày chiến đấu. Tuy nhiên, “Viếng lăng Bác” được xem là tác phẩm thành công nhất của ông khi viết về Bác Hồ. Bài thơ chứa đựng nỗi đau xót, sự chân thành và tình yêu dành cho vị lãnh tụ già của dân tộc. Tác phẩm bắt đầu bằng lời chào giới thiệu của tác giả đến Bác Hồ:
“Con từ miền Nam đến lăng Bác viếng thăm Đã thấy hàng tre trong sương bát ngát Hàng tre xanh Việt Nam ơi Bão táp, mưa sa đứng thẳng hàng.”
Khác với những nhà thơ khác, Viễn Phương sử dụng sự chân thành của mình để giới thiệu tác phẩm của mình. Tác giả đến từ miền Nam xa xôi và chỉ được trở về viếng thăm vị lãnh tụ kính yêu sau khi đất nước đã giành được độc lập. Hai từ “miền Nam” nhấn mạnh khoảng cách địa lý giữa miền Nam và miền Bắc.
Và việc đến thăm của nhà thơ như một ước ao từ lâu để đến viếng lăng Bác Hồ. Dù Bác Hồ đã ra đi từ năm 1969, nhưng đến năm 1976, Viễn Phương mới có cơ hội đến Bắc để thăm Người. Tuy nói là thăm, nhưng thực tế là một cuộc viếng thăm lăng của Người, vì Người đã ra đi từ lâu.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, nhà thơ rõ ràng không sử dụng từ “viếng” để miêu tả mục đích chính của chuyến đi, mà lại dùng từ “thăm”. Bởi vì tác giả cùng với những người con Nam Bộ khác đến đây để thăm nhà, thăm Cha già của họ. Vì miền Nam là một phần không thể thiếu của đất nước Việt Nam, là một phần của “nhà” mà Bác Hồ luôn khát khao đến thăm nhưng chưa có cơ hội:
“Bác thương miền Nam nỗi thương nhà Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (
Nhà thơ sử dụng kỹ thuật nói giảm nói tránh ở đây để giảm bớt nỗi đau và xót xa vô tận trong lòng ông. Tất cả những cảm xúc đó có thể tràn đầy trong lòng như một cơn sóng mạnh mẽ, nhưng ấn tượng đầu tiên trong tâm trí của tác giả lại là “hàng tre”. Bao quanh lăng Bác, trong làn sương sớm lấp lánh, là hàng tre xanh. Cây tre đã trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam, biểu tượng của tinh thần bất khuất của cha ông ta từ bao đời nay. Từ lúc Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc đến những cây chông, cây gai vót nhọn giúp ngăn cản quân thù. Cây tre đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện lên “bát ngát”. Không có từ nào khác thích hợp hơn “bát ngát” để tạo ra sự cao lớn, sự mênh mông, rộng lớn của những hàng tre bao quanh lăng của Người. Ấn tượng đó của nhà thơ đã trở thành một lời cảm thán.
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Khi nhìn quanh lăng Bác và ngắm nhìn hàng tre, nhà thơ cảm thấy rằng những cây tre kia thể hiện ý chí bất khuất, sức mạnh kiên cường và sự hiên ngang của con người Việt Nam qua bao năm tháng. Dù trải qua những cơn bão táp mưa sa, nhưng họ vẫn đoàn kết một lòng để đứng vững. Lời “xanh xanh” ở đây được sử dụng để diễn tả sự bất diệt và sự kiên trì của con người Việt Nam. “Xanh xanh” có nghĩa là luôn vậy, màu xanh như vậy suốt cả thời gian. Lớp con cháu kế tiếp lớp cha ông luôn mạnh mẽ để bảo vệ dân tộc.
Do đó, khổ thơ đầu tiên truyền cảm hứng cho tác giả khi đến thăm lăng Bác. Nó thể hiện nỗi đau và sự mất mát của Việt Nam khi mất đi Bác, nhưng cũng chứa đựng niềm tự hào dân tộc.
2. Cảm nhận khổ 2 bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương:
Có vô số bài thơ đã viết về Bác Hồ, kính yêu với tấm lòng thành kính và yêu thương vô hạn. Vần thơ của Viễn Phương cũng không ngoại lệ, mang trong mình sự dung dị và cảm xúc sâu lắng. Trong đó, khổ thứ hai của bài thơ Viếng lăng Bác sử dụng những vần thơ mộc mạc để làm cho chúng ta cảm thấy bình tĩnh:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng. Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Hai câu thơ đầu tiên sử dụng hai hình ảnh sóng đôi, tương tác với nhau. Mặt trời của vũ trụ vô hạn vẫn tỏa ánh sáng ấm áp cho muôn loài mỗi ngày. Hình ảnh mặt trời trong lăng ẩn dụ tượng trưng cho Bác – người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam, đã nằm yên trong giấc ngủ ngàn thu. Màu “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp gây ấn tượng sâu sắc hơn, nói lên tư tưởng cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của Bác. Người như mặt trời chói lọi, thể hiện sự trường tồn vĩnh cửu trong trái tim mỗi người con Việt Nam. Suốt bao năm đất nước đau thương, chìm trong đêm trường nô lệ, sự hy sinh cao cả của Bác như ánh dương soi sáng cho dân tộc. Sử dụng hình ảnh mặt trời để miêu tả Bác không chỉ tôn kính sự vĩ đại, mà còn thể hiện tình yêu thương vô hạn của nhà thơ dành cho người cha già kính yêu của dân tộc.
Ở hai câu thơ tiếp theo, ta thấy hình ảnh của hàng người đến thăm lăng Bác:
“Mỗi ngày dòng người đến thương nhớ Hoàn tràng hoa, kính dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Hình ảnh dòng người kéo dài vô tận khi vào lăng, tuy đông nhưng ai cũng trang nghiêm và thành kính. Mọi người từ khắp nơi trên đất nước trở về như một tràng hoa muôn sắc ngát hương, để kính dâng lên Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đại diện cho những điều tốt đẹp nhất. “Bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ về con người đã trải qua bảy mươi chín đời người sống với niềm vui như ngày xuân.
Khổ thơ kết lại trong hình ảnh đóa hoa kính dâng Người với niềm tiếc thương vô hạn. Những câu thơ bảy, tám và chín chữ với nhịp thơ chậm rãi kéo dài như những nỗi niềm thương khôn nguôi. Nhà thơ truyền tải cảm xúc của mình đến người đọc, vì cảm xúc của tác giả cũng chính là cảm xúc của người dân Nam Bộ và của cả dân tộc.
3. Cảm nhận khổ 3 bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương:
Viếng lăng Bác là một bài thơ truyền cảm của Viễn Phương khi lần đầu tiên đến Hà Nội và vào viếng lăng Bác. Bài thơ được chia thành ba khổ, trong đó hai khổ đầu tiên miêu tả cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác và khi hòa vào dòng người vào lăng. Trái lại, khổ thơ thứ ba thể hiện nỗi xúc động thiêng liêng của nhà thơ khi viếng lăng:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Câu thơ đầu tiên miêu tả cảnh tượng của Bác trong giấc ngủ thanh thản:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.”
Nhà thơ cùng dòng người tiến vào lăng và nhìn Bác từ xa. Ông liên tưởng đến Bác như đang ngủ yên trong không gian trang nghiêm của lăng. Ánh sáng nhẹ nhàng của đèn trong lăng giống như vầng trăng sáng dịu hiền, tạo nên một không khí thanh thản và trang nghiêm. Bác đã ra đi nhưng trong mắt tác giả, ông chỉ đang ngủ yên và thoải mái, không còn phải lo toan cho việc nước và dân, không còn lắng lo trăn trở. Không khí đó được cảm nhận bởi hàng triệu con tim khi viếng lăng Bác. Viễn Phương đã thể hiện nỗi lòng và cảm xúc của người Việt Nam khi đứng trước di tích lịch sử này.
Khi nhìn thấy hình ảnh của Bác, Viễn Phương không kìm được nỗi xúc động:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao trong tim lại nhói đau”.
Trong đoạn văn trên, nghệ thuật tương phản được sử dụng để diễn tả sự mâu thuẫn giữa lí trí và trái tim của Viễn Phương. Lí trí khẳng định rằng Bác vẫn sống mãi trong tâm trí của người dân Việt Nam, vĩnh hằng bất tử, nhưng trái tim lại xót xa chấp nhận hiện thực rằng Bác đã ra đi mãi mãi. Nghệ thuật ẩn dụ được sử dụng để chuyển đổi cảm giác “nghe” thấy điều chỉ có thể cảm nhận – “nhói đau trong tim” giúp khắc sâu, nhấn mạnh nỗi đau như đang quặn thắt, xót xa và đau đớn vô cùng. Việc so sánh bài thơ của Tố Hữu khi khóc Bác với cảm xúc của Viễn Phương khi vào lăng viếng Bác cho thấy sự chung tình cảm và tiếc thương của người dân với Bác.
Tổng thể, bài viết thể hiện sự kính trọng và tình cảm sâu sắc với Bác. Kết thúc bài viết bằng lời nhắn nhủ rằng Bác vẫn sống trong lòng mỗi chúng ta, bởi “trời xanh là mãi mãi”.