Mục lục bài viết
1. Dàn ý bài cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận :
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu sơ lược về vấn đề cần cảm nhận.
– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm khái quát.
1.2. Thân bài:
– Khái quát về tác phẩm, nhan đề và lời nói đầu:
+ Hoàn cảnh sáng tác: Trích từ tập thơ “Lửa thiêng” (1939).
+ Nhan đề: Điệp ngữ “ang” gợi hình ảnh một dòng sông lớn, hùng vĩ. Là một từ Hán Việt cổ gợi hình ảnh một dòng sông cổ kính, lâu đời.
+ Lời nói đầu: Tóm tắt toàn bộ bài thơ. Những hình ảnh “trời rộng”, “sông dài” gợi liên tưởng đến những miền, không gian khác nhau.
– Những cảm nhận về gợn sóng nhè nhẹ gợi nỗi buồn mênh mang của tác giả (chỉ sự chuyển động rất nhỏ, nhẹ nhàng của sóng):
+ “Trường Giang”, “điệp điệp” nhấn mạnh một nỗi buồn triền miên bao trùm cả không gian và thời gian. (Từ “điệp điệp” làm nỗi buồn man mác, chồng chất lên nhau)
+ “Thuyền về nước lại” là nói đến sự chia ly, chia tay, không được gặp nhau – hình ảnh con thuyền lẻ loi trôi vô định.
+ Bơ vơ, lạc lõng, lênh đênh giữa cuộc đời “củi nhỏ cành khô” chỉ sự nhỏ bé, tầm thường.
– Cảm nhận sự trống vắng trong khung hình, quang cảnh và nỗi cô đơn của tác giả:
+ Từ láy “lơ thơ”: nhấn mạnh sự trống trải của xung quanh và cảnh thưa thớt của cồn cát.
+ Cảnh vật tiêu điều, thưa thớt, tiêu điều.
+ Khung cảnh rộng thênh thang lặng lẽ lột tả nỗi cô đơn trong lòng người viết.
+ Cần một nhịp cầu bắc qua để tiếp xúc gần gũi với con người và cuộc sống.
– Cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước của nhà thơ:
+ Hình ảnh tuyệt vời mà buồn, “bóng chiều sa” vẽ nên khung cảnh cuối ngày, “chim chim nghiêng cánh nhỏ” thể hiện sự nhỏ bé, mong manh.
+ Khao khát được trở về nhà, quê hương như tìm được mái ấm, chỗ dựa tinh thần.
– Nghệ thuật của bài thơ.
1.3. Kết bài:
– Liên hệ bản thân.
2. Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận hay nhất:
Huy Cận là một trong những cây bút xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Thơ ông giàu chất suy tư, triết lý và luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người với vũ trụ. Tràng Giang là một trong những bao thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ quá trình tư tưởng và chất thơ của nhà thơ.
Ngay ở tiêu đề bài thơ nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh và tâm trạng của nhà thơ, lời tựa đã nắm bắt chính xác và chính xác tâm trạng của cả cảnh và bài thơ.
“Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Củi mội cành khô lạc mấy dòng”
Khi trước dòng sông mênh mông, tác giả cảm thấy nỗi buồn của bản thân giống như nhân lên nhiều lần. Ngay ở khổ thơ đầu, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ tượng hình để khái quát khung cảnh mà qua đó tác giả muốn bộc lộ tâm trạng của mình. Hình ảnh “sóng gợn” gợi sự lan tỏa, lan tỏa vào vô tận, như nỗi niềm của nhà thơ, lặng lẽ mà mênh mang. Con sóng giữa sông dài rộng càng nhân lên nỗi sầu của nhà thơ. Cảnh tượng con thuyền và mọi cảnh vật hiu quạnh làm lòng nhà thơ xúc động, bởi không biết bày tỏ nỗi niềm của mình cùng ai. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh rất đời thường trong thơ của mình và đây là một sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu”
Một lần nữa tác giả sử dụng các hình ảnh “cồn, gió, làng, chợ, bến” để bày tỏ cảm xúc của mình. Theo quan niệm của tác giả, cảnh trở nên thưa thớt, vắng vẻ bởi nỗi buồn thăm thẳm của người khiến cảnh trở nên vắng lặng, buồn tẻ, vắng lặng và cũng chính vì vắng lặng nên nhà thơ mới cảm nhận được điều đó.
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Tác giả tiếp nhận những âm thanh đời thường, nhưng không phân biệt được tiếng nói từ đâu. Nhà thơ cố trấn tĩnh để lắng nghe tiếng nói bị bóp nghẹt, nhưng không cảm nhận được, và nhà thơ đã chuyển hướng nhìn sang một điểm mới.
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu”
Nhà thơ dùng nghệ thuật chân thực đối lập mặt trời lặn trời lên để gợi sự vận động hai chiều của đất trời như nỗi buồn trong tâm trạng con người. Đứng giữa một vùng bao la sông nước, đất trời, con người như nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì vô tận.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Hình ảnh bèo dạt đưa cảm xúc trôi nổi trước mắt, không nơi trôi dạt, không cầu đò đưa khách, cảnh tượng ấy làm cho người ta không sao thoát khỏi sầu não. Tả cảnh này, tác giả thể hiện niềm khao khát cảm thương cuộc đời, mong muốn rũ bỏ những sầu muộn của cuộc đời để có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Ngắm hết cảnh chung quanh, nhà thơ đưa mắt ra khỏi không gian và tác gải thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, mà từ “đùn” cho thấy chúng được kết khối dày đặc trên những ngọn núi nơi ánh hoàng hôn buông xuống, tạo nên một màu sắc rực rỡ mà các nhà thơ gọi là “núi bạc”. Hình ảnh này tuy huy hoàng nhưng chứa đựng nỗi buồn của ông, bởi nỗi buồn của ông tụ lại như mây núi với hình ảnh cánh chim.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Tác giả đã dùng biện pháp tu từ “dợn dợn” khi miêu tả những con sóng theo làn nước lan tỏa, thoáng qua cho thấy nỗi nhớ nhà luôn thường trực bên trong nhà thơ.
Bài Tràng Giang thể hiện nỗi nhớ quê hương của nhà thơ. Nhà thơ đứng trước một khung cảnh thiên nhiên bao la rộng lớn và bâng khuâng vì cảnh đó mà sinh ra tình cảm, gợi lại tình yêu quê hương chân thành của nhà thơ. Tràng Giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của nền văn học Việt Nam cũng như của tác giả Huy Cận.
3. Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận chọn lọc nhất:
Huy Cận là một nhà thơ của thiên nhiên, đất nước và con người. Ông hay làm thơ ca ngợi vẻ đẹp của người lao động, lòng say mê cống hiến cho đời. Trong các tác phẩm của ông như Đoàn thuyền đánh cá, Bài ca cuộc đời…. có thể thấy sức khỏe và niềm vui của những người lao động. Nhưng ông cũng có những lúc u sầu, buồn bã trước thế sự – điều ít thấy. Một nhà thơ Nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ nhà và nỗi cô đơn, buồn bã trong bài thơ Tràng Giang sáng tác năm 1939. Nhà thơ nhận ra mình bé nhỏ, lẻ loi trước non sông rộng lớn tạo nên nỗi nhớ quê hương da diết.
Ta cảm nhận được tâm trạng buồn bã của tác giả đằng sau khung cảnh thiên nhiên ở khổ thơ thứ nhất:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Các từ “song song”, “điệp điệp” không chỉ rộng bình thường mà là rộng đến cả non sông đất nước. Trong khung cảnh ảm đạm này chỉ có một bóng dáng của một con thuyền, nhưng nó lại quá bồng bềnh, vô định, để mặc cho dòng nước đẩy đi, giống như tâm trạng của Huy Cận lúc này. Vạn vật cũng chuyển động thật lặng lẽ, như u sầu, u uất trước cuộc đời. Hình ảnh “Thuyền về nước lại” nghe buồn quá! Thuyền và nước là hai thứ luôn song hành với nhau. Thuyền có thể đi qua nước vì nước. Trong nước có thuyền và có sóng, nhưng ở đây Huy Cận lại cho thấy sự khác biệt giữa thuyền và nước. Nó gợi lên nỗi buồn của “trăm ngả”… Còn gì buồn hơn. Dòng cuối của khổ thơ đầu là với hai phần thể hiện sự độc đáo: “Củi một cành khô – lạc mấy dòng”. Lượng từ “một” diễn tả sự khan hiếm, chỉ có một cành khô, cũng như chỉ có một chiếc thuyền. Tâm trạng buồn của nhà văn lên đến đỉnh điểm khi mọi người xung quanh đều lẻ loi, cô đơn không biết đi về đâu. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cho thấy sự vô hồn của cảnh vật cũng như tâm hồn, nỗi buồn của nhà thơ.
Khổ thơ thứ hai vẫn diễn tả nỗi cô đơn của người viết, nhưng có gì đó rõ ràng hơn một chút:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Nếu như ở câu thơ đầu ta chỉ thấy hình ảnh thiên nhiên thì ở những câu thơ này ta thấy bóng dáng của một con người. Nhưng con người ấy cũng buồn lắm, nghe đâu đây tiếng chợ chiều xa xa. Một ngôi làng gần đó bắt đầu thu dọn để họp chợ cả ngày, chỉ còn lại những lời chào tạm biệt và tiếng ồn ào của chợ. Tưởng chừng sự xuất hiện của dòng người sẽ làm cho bức tranh bớt buồn, nhưng không, họ xoáy sâu vào người viết về hoàn cảnh của mình, chợ không còn vui tươi sôi động như buổi sáng, tâm trạng vui vẻ, phấn khởi. Hai khổ thơ tiếp theo miêu tả thiên nhiên thật đẹp:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Hình ảnh tương phản: “Nắng xuống – trời lên” thể hiện sự buông xuôi trước cuộc sống. Ánh nắng rực rỡ nhường chỗ cho màn đêm sắp tới. Cụm từ “sâu chót vót” là một hình ảnh vô cùng độc đáo bởi “chót vót” vốn là từ chỉ độ cao nhưng ở đây lại dùng để chỉ chiều sâu, cùng với câu thơ tiếp theo tạo nên một hình ảnh rất lớn mà sự xuất hiện của nhà thơ lại vô cùng nhỏ bé.
Khổ thơ tiếp theo là một hình ảnh còn ảm đạm, thê lương hơn trong khung cảnh thiên nhiên chiều muộn:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Nhà thơ tiếp tục sử dụng hình ảnh “bèo dạt” lênh đênh và ở khổ thơ đầu là con thuyền và cành khô, là những số phận lênh đênh không biết đi về đâu. Bờ sông thoáng đãng, không có phà chở khách, không có cầu, chỉ là một bãi biển rộng. Một bức tranh hiện thực đầy buồn bã, nhưng cô đơn dường như tác giả muốn thoát khỏi nó, đến với cuộc sống tươi đẹp hơn, hạnh phúc hơn.
Khổ thơ cuối là nỗi nhớ nhà của nhà văn:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Cảnh thiên nhiên qua ngòi bút của Huy Cận dường như đánh thức trước mắt người đọc hình ảnh từng lớp mây, từng lớp tung tăng trên núi cao và hình ảnh cánh chim nhỏ trong bóng chiều.. Hình ảnh một tổ ấm gia đình. Có lẽ nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn thấm thía trong lòng khi nhìn thấy những hình ảnh thiên nhiên ở những câu thơ trước nhưng chỉ khi cánh chim xuất hiện, tình cảm ấy dường như không kiềm chế được nữa. Đó là tình cảm tha thiết của người con xa quê nhưng vẫn một lòng hướng về gia đình, về quê hương, về đất nước.
Tràng có nghĩa là dài còn giang mang nghĩa là sông giống như nỗi buồn miên man, da diết của tác giả. Nhà thơ đã khéo léo đan xen tình cảm của bản thân vào trong mỗi cảnh vật trong bài thơ. Điều đó khiến cho độc giả có phần bất ngờ bởi một Huy Cận không vui vẻ, hân hoan như thường lệ mà thay vào đó là một Huy Cận sâu sắc và giàu tình cảm.