Nói với con của Y Phương là bài thơ ấn tượng, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những bài phân tích bài thơ Nói với con hay nhất nhé
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận bài thơ Nói với con của Y Phương :
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Nguồn sinh và nuôi dưỡng con trước hết là gia đình:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
ai bước tới tiếng cười.
Những hình ảnh thơ giàu giá trị tạo hình: “chân phải/chân trái/một bước/hai bước” khắc họa những bước chân chập chững của trẻ.
Thủ pháp liệt kê “tiếng nói/ nụ cười”, “với cha mẹ” gợi hình ảnh em bé tập nói, tập đi và không khí gia đình đầm ấm, yêu thương. Qua đó, chúng tôi cũng cảm nhận được những ánh mắt dõi theo, động viên và những vòng tay chờ đợi, sẵn sàng hỗ trợ con cái của các bậc cha mẹ.
=> Bằng lời lẽ giản dị, người cha nói với con: gia đình là cội nguồn tinh thần, nuôi nấng con, là chiếc nôi cho con những yêu thương, hơi ấm đầu đời.
Bài thơ còn mang ý nghĩa khái quát: Con phải học nói, phải học đi, phải lớn lên. Trên hành trình ấy, sự vững vàng “một bước/hai bước”, sự hiểu biết “tiếng nói/tiếng cười” đều có được nhờ công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Vì vậy, con cái không được quên công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.
Người đồng mình yêu lắm con ơi
…Con đường cho những tấm lòng
Sự “đồng hành” với cuộc sống lao động, sinh hoạt và không gian sống (rừng, đường về, làng) đã làm nảy sinh tình yêu quê hương đất nước.
Hình ảnh gợi hình “đan bằng nan hoa” vừa gợi tả chân thực những công cụ lao động được trang trí đẹp mắt, vừa gợi lên bàn tay cần cù, khéo léo, tài hoa và sáng tạo của con người. Tả cảnh sinh hoạt văn nghệ của người đồng mình, cảnh hát cho nhau nghe về đêm khiến tường đình như dày đặc những câu hát thiết tha, tinh tế; khơi gợi tâm hồn tinh tế, phong phú, lạc quan của đồng loại.
Biện pháp nhân hoá: “rừng hoa” là vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng là niềm vui, hạnh phúc mà quê hương ban tặng, qua đó ca ngợi sự trù phú, hào phóng của thiên nhiên quê hương. “Con đường của trái tim” gợi cảm giác lưu luyến, yêu mến của người đi về quê hương, làng quê; khơi gợi những bàn chân và trái tim trở về quê hương.
=> Cùng với gia đình, truyền thống văn hóa, tình yêu quê hương đất nước đã nuôi dạy các em khôn lớn, trưởng thành.
Tôi vẫn lớn lên từ những kỉ niệm ngọt ngào nhất, hạnh phúc nhất của bố mẹ:
– Cội nguồn sinh thành, dưỡng dục còn là quê hương:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời
“Ngày cưới” – “ngày đẹp nhất”: bởi cha mẹ không chỉ tìm thấy nhau mà còn gắn bó khăng khít; là ngày minh chứng cho tình yêu và hạnh phúc; là hình ảnh của một gia đình đầm ấm yêu thương.
Từ đó, tôi được sinh ra và lớn lên trong những điều tuyệt vời và đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Con cái là trái ngọt tình yêu của cha mẹ, là niềm hạnh phúc của gia đình. Hai từ “cha xót xa” thể hiện sự cảm thông sâu sắc của người cha trước cuộc sống cơ cực, khó khăn của các con.
Kết bài: đánh giá giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Những bài phân tích Nói với con của Y Phương hay nhất:
2.1. Bài mẫu 1 – Bài phân tích Nói với con của Y Phương hay nhất:
Gia đình, quê hương là chiếc nôi đầu tiên trong cuộc đời mỗi người. Tình cảm gia đình, quê hương là sợi dây vô hình níu giữ bước chân của những người xa quê hương. Với giọng kể nhẹ nhàng, Y Phương cho chúng tôi cảm nhận về hạnh phúc gia đình bình dị mà ai trong chúng tôi cũng từng trải qua:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, hình ảnh thơ chân thực, nhịp thơ nhanh kết hợp với cấu trúc điệp: 1 bước, 2 bước. Giúp dựng lên trước mắt chúng ta hình ảnh gia đình đầm ấm, hòa thuận, tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Hình ảnh trung tâm của bức tranh ấy là đứa trẻ đang tập nói, mỗi bước đi, mỗi tiếng cười đều được cha mẹ nâng niu. Viết những câu thơ này, dường như Y Phương cũng đang sống với tâm thế của một người cha thực sự, với niềm hân hoan, hạnh phúc khi chờ đón đứa con gái đầu lòng, nên 4 câu thơ đầu anh viết thay lời muốn nói. Nói về niềm hạnh phúc lớn nhất của con người khi được sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương của gia đình. Những câu này là một lời nhắc nhở rằng nguồn nuôi dưỡng đầu tiên của bất kỳ ai là gia đình.
Con người ta không chỉ lớn lên trong tình yêu thương của gia đình mà còn có một mái ấm lớn hơn đó là quê hương. Y Phương cũng hiểu ra và nhắn nhủ ở ba câu thơ tiếp theo. Đồng bào là đồng bào, đồng hương, đồng tộc, uống chung suối, chung đường. Ba từ “đồng bào” gợi tình cảm thân thiết giữa những người cùng quê hương. Cách bộc lộ tình cảm trực tiếp qua từ láy lóng ngóng “Thương em vô cùng” kết hợp với từ ám chỉ “con ơi” tạo nên giọng thơ tha thiết chan chứa tình cảm, lời nói chân thành của đồng bào. Trong các bài thơ, công việc của người đồng minh là đan lát, bắt cá, dựng nhà qua ba động từ liên tiếp: “đan, đan”. Hai câu thơ này soi sáng vẻ đẹp của đời sống tâm hồn mơ mộng lãng mạn. Nghệ thuật ẩn dụ được bàn tay khéo léo của người dân bản địa gọt giũa thành hình như những bông hoa đan. Những bức tường của ngôi nhà không chỉ được dệt bằng bùn và rơm, mà còn được dệt bằng những bài hát. Chất thơ đến từ hiện thực nhưng cũng được đúc kết từ cái nhìn tinh tế của Y Phương.
Thiên nhiên quê hương cũng được Y Phương vẽ lên bằng hai hình ảnh “rừng bạt ngàn và những con đường dài miên man”.
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”
Hoa là biểu tượng của vẻ đẹp tinh thần, là sự kết tinh của những gì tinh túy nhất mà núi rừng đã hào phóng mang đến cho con người. Hình ảnh ẩn dụ “những con đường” mở ra ý thơ sâu sắc hơn, con đường là con đường lên núi hàng ngày nhưng cũng là hình ảnh cho con đường đời, trên con đường đó bạn sẽ nhận được rất nhiều sự giúp đỡ. Lời chúc tốt đẹp nhất từ các đồng chí. Như vậy, cả con người và thiên nhiên của quê hương đã xây dựng cho họ một lối sống nên họ phải biết trân trọng và bảo vệ quê hương. Kết thúc khổ thơ cuối, bằng giọng chân thành, bố kể cho tôi nghe về ngày cưới của bố mẹ, ngày hai tâm hồn gặp nhau, mang đến cho tôi niềm hạnh phúc và những điều tốt đẹp nhất. Mạch thơ có sự đan xen của tình yêu gia đình – tình yêu quê hương đất nước – tình cảm gia đình đã nuôi dưỡng, che chở cho con cả về vật chất lẫn tinh thần.
Ở khổ thơ tiếp theo, bố kể về những phẩm chất của con người. Mở đầu bài thơ đó là một câu như muốn nói: ‘đồng chí rất yêu đồng chí’, câu thơ như vọng lại câu thơ mở đầu, nhưng từ thương chuyển sang thương. Chỉ một từ “thắm thương” mà diễn tả được biết bao cảm xúc: một người cha không chỉ yêu thương, tự hào về đồng đội của mình mà còn cảm thương trước những khó khăn vất vả của đồng loại.
“Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
Câu thơ ngắn khiến câu thơ như hai vế đối lập khá chuẩn mực cả về từ lẫn ý. Đó là sự tương phản giữa hai hoàn cảnh sống và ý chí kiên cường của một người đồng minh. Nỗi buồn và cái khôn lớn trong lĩnh vực tâm linh đã được Y Phương vận dụng một cách cụ thể của người miền sơn cước, lấy độ cao của núi để đo gian khổ, dùng đường rừng xa để đo ý chí. Hình ảnh ẩn dụ nêu cao ý chí gợi cảm giác kiên cường, ôm ấp khát vọng, hoài bão, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn.
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói”
Cách tre sống trên đá và sống trong thung lũng ở đầu mỗi câu thơ gợi lên cuộc sống nghèo khổ, khó khăn, vất vả của người dân đồng chí. Lời nhắn nhủ không hối hận khiến bài thơ vừa sắc sảo, vừa chắc chắn như một lời nhắc nhở những người con hãy chấp nhận quê hương với những khó khăn thử thách, phải biết sống trung thành với quê hương, không vì nghèo mà quên quê hương . Hai câu thơ này chứa đựng tình cảm của một người cha cũng như tình cảm của một nhà lãnh đạo, một nhà văn hóa. Lời bài hát như mang hơi thở của thời đại, Y Phương nhấn mạnh vấn đề nhạy cảm lúc bấy giờ: nhiều người chê đá gập ghềnh, chê quê hương hèn mọn mà bỏ xứ đi tìm đất mới. Y Phương sợ điều đó sẽ xảy ra với các con của mình bởi bỏ quê là bỏ cội nguồn. Chính vì thế Y Phương đã hai lần dặn lòng “đừng chê” để con khắc cốt ghi tâm không để con quay lưng lại với quê hương nghèo khó. Đừng phai nhạt vì quê hương gập ghềnh, phải trân trọng quê hương.
“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Nghệ thuật so sánh: “sống – sông, suối” còn mang đập tư duy của người miền núi luôn gắn liền với sự vật, hiện tượng với thiên nhiên. Sống như sông như suối thể hiện một lối sống phóng khoáng, thẳng thắn, giản dị nhưng rất mạnh mẽ và tràn đầy tình yêu thương. Nghệ thuật ẩn dụ “lên thác xuống ghềnh” gợi lên cuộc sống dù có khó khăn, gian khổ nhưng con người ta phải biết vững vàng chấp nhận đối mặt không trốn tránh, không sợ gian khổ mà vượt qua.
Những câu thơ sau là những câu thơ nói về tình đồng chí. Hình ảnh “thô sơ da thịt” là hình ảnh vừa gợi tả sự giản dị mộc mạc của đất nước, không nghệ thuật hào hoa trong cuộc sống. Nhưng trái ngược với sự giản dị mộc mạc, không ít người lại nhí nhảnh. Điệp ngữ “đâu con” làm cho giọng thơ vừa thiết tha, vừa ngọt ngào. Dùng cách diễn đạt phủ định “không ít người ít” để nói với con rằng người dân quê mình vô cùng mạnh mẽ, cao thượng không tầm thường, giàu nghị lực, trong sáng và tràn đầy khát vọng.
Bài thơ được viết theo thể thơ tự do với các câu dài, ngắn đan xen linh hoạt. Âm điệu bài thơ vừa ngọt ngào, vừa da diết cùng với những hình ảnh thấm đượm tâm tư của người dân miền núi. Bài thơ đã thể hiện tình cảm gia đình đầm ấm với lời ca ngợi truyền thống cần cù lao động của người dân quê hương. Lời thơ vừa thiết tha nhưng cũng rất nghiêm khắc về một lẽ sống thanh cao. Đó là những điều thiêng liêng, gần gũi và có ý nghĩa muôn đời.
2.2. Bài mẫu 2 – Bài phân tích Nói với con của Y Phương hay nhất:
Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày với lối thơ cụ thể, chân thực, mạnh mẽ, trong sáng và đậm chất suy tưởng của người dân tộc miền núi. “Nói với con”‘ Sáng tác năm 1980 in trong tuyển tập “Thơ Việt Nam 1945-1985”. Bài thơ gợi nhắc về tình cảm gia đình đầm ấm, yêu thương, về vẻ đẹp tâm hồn của người dân tộc miền núi cần cù, giàu sức sống và ý chí vươn lên trong cuộc sống dù khó khăn, gian khổ.
Trước hết là tình cảm của người cha nói với con về cội nguồn sinh thành dưỡng dục.
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Bốn câu thơ mở ra không khí gia đình ấm áp yêu thương với hình ảnh đứa trẻ thơ chập chững tập nói với hình ảnh người mẹ người cha. Mỗi bước đi, mỗi tiếng nói, mỗi tiếng cười của con trẻ đều có sự nâng niu, đùm bọc của cha mẹ. Cha mẹ hạnh phúc khi con khôn lớn từng ngày. Bằng những hình ảnh thơ giản dị, cụ thể, chân thực, tấm lòng người cha nói với con về cội nguồn sinh thành dưỡng dục. Tôi đang lớn lên từng ngày, gia đình là chiếc nôi ấm áp cho tôi lớn lên.
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”
Ba câu thơ là cuộc sống lao động vất vả nhưng đầy chất thơ của đồng bào. Đồng bào là người cùng làng, là đồng bào của chính mình, với câu “Thương lắm em ơi” thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó của những người trong cùng một dân tộc. Công việc hàng ngày của các đồng chí là đánh cá và xây nhà. Đó là những người dân làng chăm chỉ và cần cù. Hình ảnh “ kèn nan hoa, ken vách câu” là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Dưới bàn tay lao động của người thợ tài hoa, tre, trúc, nan tre bỗng hóa thành căm xe. Ngôi nhà không chỉ được uốn bằng những vật liệu thông thường như tre, nứa, gỗ mà ở đây được uốn bằng những điệu sli, luồng, then của đồng bào dân tộc mà còn bằng cả hoa lá.
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”
Tình yêu nồng nàn, ngọt ngào của người cha nói với con trai về món quà hào phóng của rừng. Từ đưa được kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ “ cốt cách và tấm lòng” của thiên nhiên, thơ tình đã ban tặng cho con người những vẻ đẹp tinh túy nhất. Đó là đường lên làng, đường xuống bản, đường đi khắp mọi miền đất nước. Và phải chăng đó cũng là con đường xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp, mà “tấm lòng” chính là tâm hồn, lối sống chân chính của người dân.
Những câu thơ sau là lời người cha nói với con về những phẩm chất cao quý của người đồng đội
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
Bằng chính cảm xúc của mình, bài thơ đã chạm sâu vào trái tim người đọc.
3. Bài phân tích Nói với con của Y Phương ấn tượng nhất:
Trong những thành tựu của văn học hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám, có sự đóng góp không nhỏ của thơ ca các dân tộc. Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, v.v… là bậc tiền bối của các nhà thơ. Y Phương là một trong những nhà thơ tiêu biểu sau này. Thơ Y Phương nói riêng và thơ các dân tộc thiểu số nói chung có những nét riêng rất dễ nhận ra. Đó là cách nói, cách nghĩ bằng hình ảnh, mộc mạc, cụ thể, giàu sức khái quát và cũng giàu chất thơ về gia đình, quê hương, đất nước. Tuy nhiên, ở mỗi nhà thơ lại hình thành một phong cách riêng, như ở Y Phương là sự trải nghiệm chiêm nghiệm chân lý cuộc đời, đạo lý con người, tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước. Đó là một giọng hát trầm ấm, giàu cảm xúc nhưng đầy nội lực.
Sự lan tỏa thuyết phục, hồn nhiên và rạng rỡ mà không hề rườm rà, phô trương hay lý luận dài dòng. Cấu trúc bài thơ vừa theo chiều dọc: đứa trẻ sinh ra, lớn lên thành người, được đi xa để “nuôi ý chí khôn lớn”, vừa phát triển theo chiều ngang: đứa con gắn bó với tình cảm gia đình, của quê hương, khi đến lúc phải đi xa, hình ảnh quê hương vẫn như hình bóng quê hương trở thành hành trang tinh thần vô giá. Để tiện cho việc phân tích, chúng tôi tạm cắt bài thơ thành hai đoạn.
Đứa trẻ được sinh ra và trong suốt thời thơ ấu của nó. Những bước đi chập chững đầu tiên của một người thật trang trọng và cảm động. Trang trọng vì lần đầu tiên con tự đi trên đôi chân của mình, nhưng cũng xúc động vì con có thể yên tâm và tin tưởng trong vòng tay của cha mẹ. Đứa trẻ ấy được sinh ra trong niềm hạnh phúc (“Cha mẹ nhớ ngày cưới – Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”) và lớn lên trong sự chăm sóc, dìu dắt:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Bài thơ dường như vừa kể vừa tả sao mà trìu mến, thân thương. Tấm lòng của người mẹ và người cha là mục tiêu để người con hướng tới. Sự lớn lên của đứa trẻ thật ngây thơ như mặt trời không bao giờ mọc từ phía tây. Tiếng nói tiếng cười rạng ngời phương đông. Hình ảnh cụ thể mà rất thi vị là cách đo độ dài:
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Hai thao tác tư duy không cùng hệ thống, vừa hài hước vừa sáng tạo! Không biết đó là sự sáng tạo của nhà thơ, hay người Tày ở Cao Bằng đã từng nói như vậy, nhưng nếu đó là khẩu ngữ, cách nói dân dã thì chính là người Tày của tác giả đã có hồn thơ rồi. Câu thơ có một cảm giác ấm áp, ùng ục, ngọt ngào, một loại âm vang mà cha mẹ không lo lắng. Thế nhưng, tấm lòng của cha mẹ dù rộng lượng đến đâu, con cái cần bao nhiêu vẫn là chưa đủ. Ở đây có bầu sữa tinh thần thứ hai, đó là quê hương. Quê hương hiện ra bởi ba yếu tố: rừng, đường và “đồng minh”. Rừng và đường chỉ là những hiện tượng bằng gỗ và đá vô tri vô giác, nhưng chúng cũng biết cách cung cấp cho đứa trẻ những gì nó cần để lớn lên:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Vẻ đẹp của thiên nhiên, không chỉ là sắc, cảnh mà còn là “trái tim”, một dạng vô hình, chỉ con người mới cảm nhận được, câu thơ đã dần đi vào chiều sâu và ý niệm. Rừng thì che chở, đường rộng mở, nhưng có lẽ đáng yêu hơn cả vẫn là những người dân quê:
Người đồng mình yêu lắm con ơi.
Vậy điều “đáng yêu” là gì, nếu không phải là cốt lõi tài năng và tinh thần vui vẻ:
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
Ở đây, người lớn phải nhận ra tình hình. Những tảng đá, những thung lũng, những ghềnh thác là sự nghèo đói, khó khăn bủa vây. Đây là những thử thách khó vượt qua nhưng phải vượt qua bằng ý chí. Biểu hiện đầu tiên của ý chí là không bi quan, than thở, rồi nói như Kinh điển “chân cứng, đá mềm”. Cách nghĩ ấy, lối sống ấy thấm nhuần bản chất của tính cách Việt Nam, được thể hiện ở giọng điệu riêng nhưng không phải không có sự cố chấp. Ba chữ “sống” liên tiếp đặt ở đầu câu không chỉ là một lời khuyên răn thông thường. Nó thiêng liêng như việc giữ lửa và truyền lửa, đó là vấn đề sinh tử. Nói đến nghị lực cũng là nói đến nhân cách con người. Tính cách ấy không “nhỏ bé”, phải ngẩng cao đầu như “đồng chí đục đá nâng quê hương”… Một lần nữa, quê hương hiện ra như một nguồn sức mạnh, nhưng không còn như thuở nào. chỉ còn sự an ủi, vỗ về mà tư thế bước thẳng, nhắm thẳng mục tiêu.
Về nghệ thuật của bài thơ, cùng với cách nói, cách tạo hình (như đã phân tích ở trên), cần bổ sung nhịp điệu, giọng điệu, thể thơ và các biện pháp tu từ về nhịp thơ, có lúc nhanh, có lúc chậm, chậm rãi trong miêu tả, có lúc nhanh, thiết tha trong khát vọng làm người, khi mạch thơ chỉ là một mũi tên định hướng. Trong đó, mật độ không đều của câu nói về “đồng mình” như một điểm nhấn, tạo nên nhịp điệu tự nhiên tùy theo cảm xúc, suy nghĩ của người cha trong cuộc đối thoại một chiều (hình ảnh người con). Nếu như ở phần đầu, sự nhẹ nhàng, dịu dàng là giai điệu chủ đạo thì phần lý trí đã được nâng lên. Nhưng dù ngọt ngào hay nghiêm túc, ẩn chứa trong đó vẫn là tiếng nói tha thiết của yêu thương và hi vọng. Về thể thơ, Nói với con được viết theo thể thơ thất ngôn, độ dài của mỗi câu thơ không giống nhau. Hình thức thơ tự do này phù hợp với phong cách đối thoại hàng ngày, cho lối suy nghĩ hồn nhiên, giản dị không cần trau chuốt, chạm khắc. Ngoài ra, cũng cần chú ý đến các biện pháp tu từ, như ám chỉ (trong nhiều trường hợp), các biện pháp đối đáp để làm nổi bật ý thơ ở đây là đối lập giữa thể xác và tinh thần. Những yếu tố nghệ thuật này bổ sung cho nhau như những tấm vải nhiều màu sắc, những chiếc túi thổ cẩm đẹp mắt, một loại “túi đựng thơ” của người miền núi.