Mục lục bài viết
1. Dàn ý Cảm nhận bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh hay nhất:
I. Mở bài
Giới thiệu vấn đề: Bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh là một tác phẩm thơ nổi tiếng được viết trong bí ẩn và khó khăn của nhà thơ trong thời gian lưu đày và tù tội. Chúng ta sẽ cảm nhận và nghiên cứu bài thơ này qua một góc độ khác biệt.
II. Thân bài
– Hoàn cảnh khó khăn của bác hồ
Bức tượng thiếu thốn: Bác Hồ đang phải đối mặt với hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn lúc ở trong tù. Với tâm hồn nhạy bén của một thi sĩ, thiếu hoa và rượu có thể được coi là mất mát nghiêm trọng.
Sức mạnh của tình thần: Trong môi trường thiếu thốn như vậy, Bác Hồ đã thể hiện sự mạnh mẽ của tinh thần và sự kiên nhẫn bằng việc viết nên một bài thơ đầy nghệ thuật và tinh tế.
– Cảm xúc trước vẻ đẹp tự nhiên
Sự gợi cảm bất ngờ: Mặc dù ở trong tình cảnh thiếu thốn, bác hồ vẫn có thể trải nghiệm sự đẹp và cảm xúc mạnh mẽ khi đối diện với cảnh vầng trăng tỏa sáng giữa đêm khuya.
Tinh thần thư thái: Vầng trăng này giúp Bác Hồ cảm thấy thư thái, giúp tâm hồn an lạc và tỏa sáng trong bóng tối của tù đày.
– Sự gắn kết vô hình với vầng trăng
Ngắm trăng từ phòng giam: Bác Hồ ngắm trăng từ phòng giam tối, nhưng trong tâm hồn, Người đã tiến đến vầng trăng và tận hưởng vẻ đẹp của nó.
Vầng trăng nhân hóa: Bài thơ nhân hóa vầng trăng như một người bạn tri âm, tri kỷ, làm cho sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên trở nên rõ ràng.
→ Bài thơ “Ngắm trăng” thể hiện một góc độ mới về nhà thơ Hồ Chí Minh, về sự tinh tế, sự nhạy bén của tâm hồn thi sĩ dưới hoàn cảnh éo le, đồng thời cảm nhận rằng tinh thần của con người có thể vượt qua mọi khó khăn và tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống.
III. Kết bài
Khái quát về bài thơ: Bài thơ “Ngắm trăng” không chỉ là một tác phẩm thơ đẹp mà còn là một biểu trưng về sự kiên nhẫn, tinh thần và khả năng tận hưởng cuộc sống trong hoàn cảnh khó khăn.
Giá trị của tác phẩm: Tác phẩm này giúp chúng ta thấy được tầm quan trọng của tinh thần và ý nghĩa của việc tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống dưới mọi hoàn cảnh.
2. Cảm nhận bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh hay nhất:
Bài thơ “Ngắm trăng”rút từ “Nhật ký trong tù” được viết trong một hoàn cảnh đoạ đầy đau khổ, từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói lên tình yêu trăng và yêu thiên nhiên tha thiết.
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”
Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cúng không hoa,” nhưng Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động trước vầng trăng xuất hiện trước cửa ngục đêm nay. Một niềm vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi. Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hản rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng?
Nhưng cũng chính vào những phút giây căng thẳng như thế, Hồ Chí Minh lại cũng tìm được cách để giành lấy một sự thư thái, nó là trạng thái cân bằng không thiếu được. Ông đã tự phân thân để có một cuộc sống thứ hai – nghĩa là từ trong tâm thức, ông đã mang sẵn cốt cách một thi nhân. Và ở đây ta đang nói đến những ngày tù ngục trong nhà tù Quốc dân Đảng Trung Quốc, cuộc sống thứ hai trong khung cảnh tù đày của Hồ Chí Minh là cuộc sống bên trong, cuộc sống hướng nội. Hướng nội – trong cách nhìn sự vật, trong cách độc thoại với chính mình, và hướng nội cả trong cách “vượt ngục” bằng “ý tại ngôn ngoại” của những vần thơ tù.
Ở đây sự “vượt ngục” đã hoàn thành một cách thần kỳ, sự phấn đấu trở nên hài hòa, hồn nhiên, thư thái: “Trong tù không rượu cũng không hoa, Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.” “Trong tù không rượu cũng không hoa” là việc cố nhiên. Nhưng “Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ” không phải việc cố nhiên nữa. Chúng ta sống trong cõi đời tự do mà còn chẳng để ý đến sự tròn khuyết của vầng trăng ngay trên đầu, nói chi đến một người tù. Câu thứ hai đã là một tâm hồn thi nhân – hiền triết trong sáng và tinh tế. Thấy trăng đẹp mà bối rối cả tâm trí: “làm thế nào bây giờ” quả là một tâm hồn thơ mộng. Cái thơ mộng này sóng đôi với cái thực tế trên tạo nên một thi vị rất “uá mua” của Hồ Chí Minh. Ông yêu rất nghệ sĩ vầng trăng trên đầu, nhưng ông cũng không quên rất cụ thể cái cùm sắt dưới chân. Thơ mộng nhưng không viển vông. Thiết thực nhưng không chặt đi đôi cánh lãng mạn của trí tưởng. Ba yếu tố rượu, hoa, trăng thì thiếu mất hai rồi. Nhưng tâm hồn nhà thơ vẫn dọn một bữa tiệc thưởng nguyệt độc đáo:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” Ít thấy ai thương trăng trong cái tư thế lạ kỳ này. Đọc lại nguyên văn chữ Hán để thấy rõ hơn vị trí của ba “nhân vật”: người, trăng và cái song sắt nhà tù. “Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt, Nguyệt tòng song khích khán thi gia.” Nhân, nguyệt rồi nguyệt, thi gia ở hai đầu câu thơ, cái song sắt chắn giữa. Trong mối tương giao tri kỷ tri âm giữa con người và vầng trăng, cái song sắt hiện lên thật thô bạo và bất lực. Hồ Chí Minh ngắm trăng rất giống người xưa trong niềm say mê cái đẹp thiên nhiên nhưng cũng khác người xưa trong sự phát hiện vẻ đẹp của cõi người. Người xưa ngắm trăng thấy trăng đẹp trăng trong càng ngậm ngùi cho cõi đời trầm luân cát bụi. Với Hồ Chí Minh, người ngắm trăng, mê trăng thì trăng cũng mê người. Đây không chỉ là cái hay của bút pháp mà chính là vẻ đẹp của một nhân sinh quan. Cũng cần chú ý thêm: để biểu hiện con người, ở đầu câu thơ trên tác giả dùng chữ nhân, ở cuối câu thơ dưới tác giả dùng thi gia. Hai chữ ấy, cố nhiên, vẫn chỉ là một đối tượng, nhưng đã có sự biến đổi: trước cuộc ngắm trăng, đấy là người tù, sau cuộc ngắm trăng người tù biến mất và xuất hiện nhà thơ. Rõ ràng đã có một cuộc “vượt ngục,” và như đã nói trên: cuộc “vượt ngục” đã hoàn thành một cách thần kỳ.
Bác đã quên đi trong phút chốc cái hiện thực phũ phàng, nghiệt ngã của cuộc sống tù để thảnh thơi mà “thưởng nguyệt” như cái thú thanh cao của thi sĩ muôn đời. Vẻ đẹp thiên nhiên ở đây giản dị mà độc đáo: ánh trăng soi qua khung cửa sổ nhà lao và trở thành tri âm, tri kỉ của người tù.
Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Dù trong hoàn cảnh ngục tù đau khổ thiều thốn, nhưng Bác vẫn tự tạo cho mình một tư thế ngắm trăng tuyệt đẹp.”
3. Cảm nhận bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh đạt điểm cao:
Trăng là người bạn tri kỷ muôn đời của Bác Hồ, đồng hành với Người qua mọi chặng đường hoạt động cách mạng. Trong những năm gian khó, không thể quên sự giao hòa giữa Người và ánh trăng tại nhà tù Trung Quốc. Bài thơ “Ngắm trăng” thể hiện rõ vẻ đẹp của thiên nhiên và con người qua mắt Bác Hồ.
Trăng luôn là đề tài lớn trong thơ của Bác, ví dụ như trong bài “Cảnh khuya”:
“Tiếng hát trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Hoặc bài “Nguyên tiêu”:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”
Bình thường, mọi người thường dành thời gian thư giãn, thảnh thơi cùng trà và kẹo ngọt khi ngắm trăng, suy ngẫm về cuộc sống và tận hưởng vẻ đẹp của trăng. Nhưng với Bác Hồ, không cần điều kiện hoàn hảo, chỉ cần tình yêu và đam mê, Người có thể thưởng thức ánh trăng mà không cần trà, kẹo ngọt:
“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà”
Câu hỏi “làm thế nào” thể hiện sự băn khoăn, nhưng cũng chứa đựng niềm hứng khởi và hạnh phúc khi gặp lại người bạn tri âm. Mặc dù trong những hoàn cảnh khắc nghiệt, Bác Hồ không quên tình yêu thiên nhiên, sự đắm say trước vẻ đẹp, đặc biệt là ánh trăng. Hai gương mặt trong sáng, trăng và nhà thơ không thể bị song sắt lạnh lẽo ngăn cách, họ vẫn tạo ra một sự giao hòa đặc biệt trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Điều này thể hiện trong hai câu thơ đẹp đẽ:
“Nhân hướng song tiền khan minh nguyệt
Nguyệt tong song khích khan thi gia”
Bài thơ “Ngắm trăng” là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc, thể hiện tình yêu của Bác Hồ đối với thiên nhiên và khao khát tự do trong bối cảnh tù ngục khó khăn.