Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu thể hiện hình ảnh người chiến sĩ cách mạng và sự gắn bó keo sơn của họ qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, giàu sức biểu cảm. Dưới dây là bài cảm nhận về 10 câu giữa bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận về 10 câu thơ giữa bài thơ Đồng Chí:
Mở bài: Giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Bài thơ được sáng tác vào đầu năm 1948 – sau chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947. Khi đó ông là chính trị viên đại đội, từng tham gia các đơn vị tham gia chiến dịch Việt Bắc và sống trong tình đồng chí, đồng đội. Đồng đội keo sơn, gắn bó cùng nhau vượt qua khó khăn, gian khổ trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Sau chiến dịch, ông bị ốm nặng phải nhập viện. Đơn vị đã cử một đồng chí ở lại chăm sóc
– Tình đồng chí bắt nguồn từ sự giống nhau về xuất thân của những người lính:
“Quê hương tôi nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
“Anh” là người của “ruộng chua nước mặn”, “tôi” là người của vùng “người cày trên đá”. Hai vùng đất khác nhau, “người lạ” nhưng giống nhau ở cái “nghèo”. Hai câu thơ giới thiệu giản dị xuất thân của người lính: họ là nông dân nghèo.
– Tình đồng chí được hình thành từ việc cùng chung sứ mệnh, cùng lý tưởng, sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu:
“Súng đấu súng, đối đầu”
Họ “không hẹn mà gặp” nhưng lý tưởng chung của thời đại đã đưa họ xích lại gần nhau hơn trong hàng ngũ quân cách mạng. “Súng” tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu, “đầu” tượng trưng cho lý tưởng, tư tưởng. Điệp khúc (súng, đầu, mạn) tạo âm điệu chắc, khỏe, nhấn mạnh sự gắn kết, chung lý tưởng, chung nhiệm vụ.
– Tình đồng chí nảy nở, bền chặt, sẻ chia mọi khó khăn, vui buồn:
Đêm lạnh chung chăn thành đôi tri kỷ.
Sự khó khăn, thiếu thốn hiện ra: đêm lạnh, chăn không đủ đắp nên phải “chung chăn”. Nhưng chính cái chăn ấy, sự sẻ chia trong khó khăn ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình đồng đội trở thành “tri kỷ”.
=> Sáu câu đầu giải thích nguồn gốc và sự hình thành tình đồng chí giữa những người đồng đội với nhau. Câu thơ thứ bảy như một bản lề khép lại câu thơ thứ nhất để mở ra câu thơ thứ hai.
Tình đồng chí là sự hiểu biết sâu sắc về tâm tư, tình cảm của nhau. Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu được tình cảm sâu nặng, thầm kín của đồng đội:
Những cánh đồng tôi gửi người bạn thân nhất của tôi để cày,
Căn nhà trống trải mặc cho gió đung đưa
Giếng gốc nhất nhớ người lính.
Người lính ra trận đã để lại những gì quý giá nhất của quê hương: ruộng đồng, nhà cửa, giếng nước gốc đa,… Từ “không biết” thể hiện sự ra đi dứt khoát của người lính. Nhưng trong sâu thẳm trái tim họ vẫn nhớ quê hương da diết. Ở ngoài chiến trường, họ vẫn hình dung ra ngôi nhà không đung đưa trước gió nơi quê hương xa xôi.
– Tình đồng chí còn là sự sẻ chia những gian khổ, thiếu thốn của đời người lính:
+ Những gian khổ, thiếu thốn trong đời sống của người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân đất, những trận sốt rét, rét mướt. , khô môi, khô môi. nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có khi nứt và chảy máu. Nhưng những người lính vẫn mỉm cười vì họ có được sự ấm áp và niềm vui của tình đồng đội “tay trong tay”.
+ Hơi ấm nơi đôi bàn tay và trong trái tim đã chiến thắng cái lạnh trong tiết trời “không giày”, “đông lạnh”. Cặp từ “anh” và “tôi” luôn đi đôi với nhau, có khi đi cùng nhau trong một câu thơ, có khi đi cùng nhau thể hiện sự gắn bó, sẻ chia của tình đồng chí.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Cảm nhận 10 câu thơ giữa bài Đồng Chí hay nhất:
Mẫu số 1:
Mười dòng giữa của bài thơ “Đồng chí” của tác giả Chính Hữu nói về những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Với người nông dân, “ruộng” và “nhà” là tài sản quý giá nhất nhưng họ vẫn “gửi bạn thân”, “để gió cuốn đi” để quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn. Cụm từ “mặc kệ” được dùng để chỉ thái độ vô trách nhiệm, nhưng ở đây nó được dùng để chỉ thái độ kiên quyết, dứt khoát. Tuy nhiên, mặc dù họ nói ” để nó đi”, họ vẫn nghĩ về nó, mong chờ nó và lo lắng về nó. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ trong hình ảnh “giếng nước gốc đa” để thể hiện hai chiều nỗi nhớ của người lính đối với người thân và ngược lại. Họ có những suy nghĩ và cảm xúc giống nhau nên sẵn sàng chia sẻ với nhau và điều đó khiến họ càng trở thành tri kỷ. Vì đã trở thành tri kỷ nên họ sẵn sàng chia sẻ nhu cầu vật chất. Nghệ thuật sóng đôi được tác giả sử dụng để nói lên tình cảm chung của họ về những khó khăn, thiếu thuốc khi ốm đau, tư trang khi gặp thời tiết khắc nghiệt và những nhiệm vụ nguy hiểm. Bài thơ “miệng buốt” thể hiện sự khắc nghiệt của thời tiết và nó cũng thể hiện tinh thần lạc quan của người lính trước những khó khăn đó. Dù ở trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, khắc nghiệt nhưng họ vẫn “tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “tay trong tay” thể hiện một sức mạnh vô cùng cao quý, thiêng liêng giúp người lính giữ ấm trong tiết trời vô cùng khắc nghiệt của núi rừng Việt Bắc. Tóm lại, mười câu giữa của bài thơ “Đồng chí” nói về những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Mẫu số 2:
Chiến tranh gây cho chúng ta nhiều tổn thất đau thương về người, tài sản và tinh thần. Nhưng cũng ở nơi chiến trường khốc liệt, chỉ có khói bom, máu đỏ tươi, đó là những bông hoa đẹp nhất về tình yêu quê hương, đất nước, tinh thần đoàn kết, đặc biệt là tình đồng chí, đồng đội sâu sắc. Nhà thơ Chính Hữu – cây bút trẻ tiêu biểu của văn học buổi đầu chống Pháp – sáng tác tác phẩm “Đồng chí” trong thời gian tham gia kháng chiến ở chiến dịch Việt Bắc 1947.
Bài thơ được coi là tác phẩm tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946 – 1954, bài thơ đã đi qua hơn nửa thế kỷ, làm đẹp thêm một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu. Mười dòng giữa bài thơ đã truyền tải đến người đọc những biểu hiện chân thành và sức mạnh mà tình đồng chí, đồng đội mang lại.
Họ là những người con của mọi miền đất nước Việt Nam, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, bỏ lại gia đình, quê hương để ra trận. Những người lính này đều giống nhau ở xuất thân là nông dân nghèo và lòng yêu nước. Họ gắn bó, sẻ chia khó khăn, tâm sự nỗi nhớ nhà với nhau trong từng công việc. Cứ thế, tình đồng chí ngày càng gắn bó, lâu dần trở thành tri kỷ:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Bài thơ chỉ 10 câu ngắn gọn nhưng lay động người đọc bởi tinh thần đồng chí, đồng đội. Bạn phải tin tưởng, thân thiết đến mức nào thì mới có thể nói cho nhau nghe về cảm xúc của mình. “Anh” và “Tôi” là tri kỷ của nhau, khi kể cho nhau nghe về hoàn cảnh, tâm tư, tình cảm của nhau thì hiểu nhau hơn.
Hóa ra anh và tôi cùng chí hướng, cùng gác lại chuyện riêng tư để giúp ích cho sự nghiệp lớn của Tổ quốc. Hình ảnh “nhà ruộng gửi bạn thân đi cày”, “vườn không nhà trống” kết hợp với từ láy “lung lay” gợi sự trống trải, thiếu thốn khi gia đình vắng bóng người trụ cột gia đình. Tuy nhiên, người lính ấy đã kiên quyết, khẳng khái “gác lại” tất cả để cống hiến.
Lập dàn ý so sánh hình ảnh người lính trong bài thơ về tiểu đội không kính, tình đồng chí
So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ về tiểu đội không kính và đồng đội
Ở quê nhà, có những người luôn mong ngóng người lính chiến thắng sớm trở về. Hình ảnh “giếng nước nhớ người lính” sử dụng nghệ thuật ẩn dụ nhân hóa, “giếng nước gốc đa” ở đây là chủ thể trữ tình của câu thơ, dùng để chỉ gia đình, làng xóm, con cháu. cách đáng tin cậy nhất. Họ cũng là động lực để những người lính làm việc chăm chỉ hơn. Và trong lòng mỗi người lính luôn nhớ về gia đình. Vì vậy, họ nương tựa vào nhau, đồng cảm với hoàn cảnh chung đó, cùng nhau cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Ngòi bút hiện thực mới mẻ, hình ảnh thơ độc đáo, nhịp điệu nhẹ nhàng đưa người đọc đến với trái tim đầy tình cảm của những người lính dành cho nhau. Có lẽ, thời gian càng trôi qua, họ càng gắn bó, yêu thương và đồng hành cùng nhau trên con đường phía trước luôn tươi cười.
Không phải chỉ trong thời chiến mới có những người bạn tâm giao cao quý và chân thành như vậy. Ngay trong thời đại ngày nay, chúng ta cũng cần phải biết trân trọng những người bạn đã luôn đồng hành, sát cánh bên ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. Cảm âm 10 câu giữa của bài hát “Đồng chí” hi vọng sẽ mang đến cho các bạn nguồn cảm hứng bất tận để cùng nhau xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp!
3. Cảm nhận 10 câu giữa bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu:
Chính Hữu quê ở thành phố Hà Tĩnh, là nhà thơ chiến sĩ viết về người lính và hai cuộc kháng chiến, đặc biệt là những tình cảm cao quý của người lính như tình đồng chí, đồng đội, tình yêu đất nước. Tác phẩm “Đồng chí” viết năm 1948, in trong tập “Đầu súng trăng treo”, là một trong những bài thơ tiêu biểu hay nhất viết về người chiến sĩ cách mạng trong văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong bảy câu thơ đầu, tác giả đã cho ta thấy cơ sở của tình đồng chí của những người lính cách mạng:
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người lạ lẫm
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí ! ”
Đầu tiên, tác giả cho chúng ta thấy rằng tình đồng chí của họ bắt nguồn từ sự giống nhau về xuất thân:
” Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá ”
Hai câu thơ có kết cấu sóng đôi, đối ứng với nhau: “quê anh – làng em”, “ruộng chua nước mặn – đất cày sỏi đá”, ra mắt rất giản dị, chân thực về xuất thân của hai con người. Những người lính của họ là những nông dân nghèo. Các thành ngữ: “nước mặn thì chua”, “đất cày đá mòn” diễn tả sự nghèo nàn của những vùng đất ven biển bị nhiễm mặn, khô cằn, không canh tác được. Qua đó ta thấy hết được đất nước bị nô lệ, chiến tranh liên miên dẫn đến đời sống của người nông dân hết sức cơ cực, khó khăn và vất vả về nhiều mặt. Từ hai miền đất lạ, “cặp đôi xa lạ” nhưng giống nhau ở cái “nghèo”:
” Anh với tôi đôi người lạ lẫm
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. ”
Từ “đôi” gợi sự thân thiết, nhưng không thể bày tỏ. Họ nói “không có ngày” nhưng họ thực sự có một cuộc hẹn. Vì anh và tôi có chung lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí chiến đấu thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp nên tình nguyện nhập ngũ để “làm quen nhau”. Đó không phải là một buổi hẹn hò sao? Một lời hứa không lời nhưng chứa đựng những ý nghĩa cao cả từ sâu thẳm tâm hồn người lính.
Tình đồng chí còn được sinh ra từ sự chung trách nhiệm, cùng lý tưởng kề vai sát cánh trong hàng ngũ chiến đấu:
” Súng bên súng, đầu sát bên đầu ”
Đoạn thơ là bức tranh hiện thực về tư thế sẵn sàng, sát cánh của người lính khi thi hành nhiệm vụ. Vẫn là hình ảnh sóng đôi, uyển chuyển trong kết cấu “Súng đối súng, đầu đối đầu”. “Súng” tượng trưng cho trận đánh, “đầu” tượng trưng cho trí óc, tâm lý của người lính. Điệp khúc tạo âm điệu mạnh mẽ, vững chắc, nhấn mạnh vấn đề liên kết, trách nhiệm chung, chung mục đích, lí tưởng. Và tình đồng chí, đồng đội càng bền chặt, nảy nở khi họ cùng nhau chia sẻ mọi khó khăn, gian khổ trong cuộc sống phía trước:
” Đêm rét chung chăn thành đôi chi kỷ ”
Ở núi rừng Việt Bắc, cái lạnh đầu đông khiến bộ đội ta rất lạnh, thậm chí có lúc sốt rất cao do sống trong môi trường, thiên nhiên khắc nghiệt như vậy. Nhưng bất chấp mọi khó khăn, thiếu thốn và thời tiết khắc nghiệt, họ đã chia sẻ chăn để giữ ấm. Chăn không đủ, đêm lạnh họ đắp chăn cho nhau để giữ ấm. Chính việc “chung chăn” đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm đồng đội để họ trở thành “tri kỷ”. “Bạn bè” có nghĩa là sự gần gũi, gắn bó, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhau. Đã là “bạn tri kỷ” thì càng gắn bó, quý mến nhau hơn. Chính vì thế câu thơ nói về sự khắc nghiệt của thời tiết và chiến tranh nhưng sao ta vẫn cảm nhận được hơi ấm của tình đồng chí, bởi cái lạnh đã tạo nên tình yêu thương của hai người lính chung chăn.
Câu thơ cuối là câu thơ đặc biệt quan trọng chỉ với hai chữ “Đồng chí” khi nghe ta cảm nhận được sự sâu lắng chỉ với hai chữ “Đồng chí” và một dấu chấm than, tạo sự nhấn mạnh làm điểm tựa. Điểm mấu chốt, giống như một cây sào, được gánh ở cả hai đầu bởi những câu thơ đồ sộ. Nó như một phát hiện, một minh chứng và khẳng định, một tiếng gọi sâu sắc, cảm động từ trái tim, ngọt ngào trong lòng người về hai tiếng mới mẻ và thiêng liêng ấy. Câu thơ như một bản lề nối liền hai phần của bài thơ, làm rõ một cách khái quát: Cùng hiện thực, cùng lí tưởng, họ trở thành đồng chí của nhau.
Tình đồng chí của những người quân nhân cách mạng trên cơ sở chung hoàn cảnh, chung lý tưởng chiến đấu được thể hiện một cách tự nhiên, giản dị và sâu sắc trong mọi tình huống, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp. ý thức của người chiến sĩ cách mạng.