Nhắc đến Then người ta nghĩ ngay đến sinh hoạt tín ngưỡng của người Tày Nùng. Hiện nay chưa có tài liệu chính xác ghi chép về ngày ra đời của Then. Chỉ biết Then là vị thần đã xuất hiện từ lâu đời trong đời sống của các dân tộc Nùng, Tày, Thái. Hãy cùng có thời gian tìm hiểu về Đền Bà Chúa Then, sự tích Bà Chúa Then và cách sắm mâm lễ cùng văn khấn xin lộc tại Đền bà Chúa Then trong bài viết sau đây.
Mục lục bài viết
1. Bà Chúa Then là ai?
Bà Chúa Then (bà Tổ nghề bói Then) vị thánh tổ của các dân tộc Choang, Nùng, Tày và Thái. Then nghĩa là Thiên hát lên để tế Ngọc Hoàng Thượng Đế. Bà hóa thân và phong ba đồ đệ gồm Bà Nhất – tổ then của người Choang và người Nùng, Bà Nhị – tổ then của người Tày, Bà Tam – tổ then của người Thái.
Chúa bà có nhiều ngón nghề như đọc bùa chú, bói toán, chữa bệnh, triệu hồn và làm vô số phép lạ… Chúa Bà Then hiện thân, mặc áo chàm đội khăn xếp, mang theo đàn tính điều binh luyện tướng của Chúa đi làm những công việc do trời giao xuống, giúp đỡ dân chúng bách gia có lời kêu cầu đấu tối.
2. Văn hóa thờ Bà Chúa Then trong tín ngưỡng người Việt Nam:
Tục thờ Bà Chúa Then là loại hình văn hóa nghệ thuật tâm linh quần chúng, luôn có sức sống mãnh liệt trong đời sống cộng đồng của các dân tộc Nùng, Tày, Thái. Tín ngưỡng thờ cúng Chúa Then là một loại hình văn hóa phi vật thể vừa năng động, vừa rất nhân văn, vừa mang tính cộng hưởng của văn hóa dân gian, tín ngưỡng gắn với bản sắc của từng dân tộc Tày, Nùng và Thái là các dân tộc thiểu số. Đối với đồng bào ba dân tộc, tục cúng bái Bà Chúa Then lúc bấy giờ không chỉ để cầu bình an, hạnh phúc mà còn liên quan đến các hoạt động tín ngưỡng trong năm.
Then có nghĩa là “thiên”, người Tày tin rằng Chúa Then là đại diện của thần thánh, là cầu nối tâm linh, những lời thỉnh cầu, nguyện vọng của con người đến tai trời đất.
Vì vậy, các dịp lễ người Nùng, Tày, Thái cầu tài, cầu an, giải hạn, cúng tổ tiên hay mừng nhà mới, mừng thọ ông bà, các cụ cao niên, v.v.. đều không thể vắng mặt thầy Then. Trong trường hợp này, thờ cúng Then là một hình thức tâm linh, tín ngưỡng dân gian, trong đó thờ cúng còn hấp dẫn bởi nghệ thuật, không gian và thời gian của người nghệ nhân. Diễn xướng then là loại hoạt động kết hợp nhiều hình thức diễn xướng. Đó là một hình thức bao gồm nhiều yếu tố khác nhau như tín ngưỡng xã hội và văn hóa nghệ thuật, đúc đồng, múa, mạ vàng, lễ cúng.
Xuất phát từ quan niệm bệnh tật là do hồn lìa khỏi xác một thời gian hoặc hay do “phi” nhập vào xác đánh đuổi xúc phạm đến hồn. Điều này tất yếu dẫn đến quan niệm muốn hết bệnh thì phải làm cách nào đó để đưa hồn trở lại xác hoặc đuổi vong hồn ra khỏi xác. Nhưng người ta không thể tự “thấy” trời để xin mà phải có một người “đặc biệt” có thể kết nối thế giới con người với thế giới siêu nhiên, là “then”, “giàng” hoặc “pựt”. Nhờ những trải nghiệm, kinh nghiệm của mình, họ biết cách ứng xử, nhận ra những bất lợi và thuận lợi của thiên nhiên, thời tiết đối với lao động sản xuất của con người.
Theo nghĩa trên thì “then”, “giàng”, “pựt” của người Tày, Nùng, Thái giống như thầy cúng hay thầy mo của người Mường, cô đồng bà cốt của người Kinh. Đây là những người mà mọi người tin rằng có một nhiệm vụ thiêng liêng là liên kết giữa trời và đất. Để tăng thêm uy thế và “khả năng” siêu phàm của mình, khi đó các “then” còn cấp sắc được gọi là lẩu then. Số tua ở sau mũ là “chứng chỉ” chứng thực khả năng giao tiếp với thần linh của mỗi then. Nếu càng có nhiều dải chứng tỏ khả năng tuyệt vời của then, do đó càng có nhiều dải mũ thì các con hương càng tôn trọng và coi trọng.
Thiên đàng một hình ảnh lý tưởng của nhân gian, trở nên cụ thể qua những thầy then có khả năng “du hành từ cõi này sang cõi khác”, hay nói cách khác, nhân bản hóa thiên đàng để mang thiên đàng đến gần nhân gian hơn. Ngoài ra, các thầy then thời đó đã cụ thể hóa khái niệm linh hồn trong tín ngưỡng của các dân tộc Tày, Nùng, Thái bản địa. Theo truyền thuyết dân gian, quả trứng và con chim én trở thành công cụ và biểu tượng của nghề then. Tất cả các vị thần theo quan niệm dân gian khi vào trong then thì nhập vai như những nhân vật có thật. Ngoại trừ tổ tiên là những nhân vật phàm tục có thật, tất cả các vị thần khác sau đó đều có hình dáng của riêng mình. Nhiều vị xuất hiện qua phương thức nhập đồng bằng trong các đám lấu cấp sắc của “pựt” nhử Thổ Công, Táo Công. Khi nhập đồng, những người thầy thời ấy trở thành những thầy then trở thành những nhân vật “trời giáng” xuống trần gian để dạy dỗ, dạy bảo con cháu.
Chúa Then khác với văn hóa chầu Đạo Mẫu. Tiên chúa bói Then có ngày sinh hóa, Đền thờ Nam Thiên Tứ Thánh Thủ Thượng – Đền Đồng Ông Bùi Quang Lưu ở xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang được coi là trốn tổ của chúa Then theo đạo mẫu Việt Nam. Bấy giờ trong Đạo Mẫu Việt Nam, ông là người trẻ nhất thờ Chúa Then rất hoành tráng và trang trọng thuộc bậc nhất thờ Bà Chúa Then. Hậu duệ còn đến tận ngày nay là ông Vương Văn Bình và bà Trịnh Thị Núi.
3. Cách sắm mâm lễ xin lộc tại Đền bà Chúa Then:
Việc sắm lễ khi vào đền là hoàn toàn tùy tâm. Lễ vật đền Bà Chúa Then có thể đa dạng khác nhau. Tuy nhiên, cần phải chú ý đến những điều kiêng kỵ sau:
‐ Lễ chay: hương hoa, trà, quả, phẩm oản,… Phần lễ chay dùng để dâng ban Thánh Mẫu.
‐ Lễ mặn: có thể mua đồ chay có hình thịt gà hoặc heo, hoặc dùng đồ mặn như thịt heo, gà,…
‐ Lễ đồ sống: Trong mọi trường hợp tại các ban quan Ngũ hổ, Bạch xà, Thanh xà ở hạ ban Công Đồng Tứ Phủ, không được dâng thức ăn sống (trứng, gạo, muối, thịt)
‐ Cỗ Sơn trang: các món đặc trưng chay Việt Nam. Lưu ý không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh,…
‐ Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa,… Ngoài ra có thể chuẩn bị gương, lược,… là những đồ mô phỏng đồ chơi người ta hay làm cho trẻ em. Những lễ vật này nhỏ, được làm cẩn thận và đóng gói trong những chiếc túi đẹp.
‐ Lễ thần Thành Hoàng, Thư Điền: Phải cúng đồ chay mới có phúc, lời cầu nguyện mới được linh ứng.
4. Văn khấn xin lộc tại Đền bà Chúa Then:
(Nam mô a di Đà phật) 5 lần (mỗi lần 1 lễ, đủ 5 lễ )
Con kính lạy: 9 phương trời 10 phương phật chư phật 10 phương.
Nam mô Đức phật bổn sư thích ca mâu ni như lai.
Nam mô đức tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật!
Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn linh cảm quan thế âm bồ tát
Con kính lạy hội đồng chư phật, chư pháp, chư tăng. Nam mô phật pháp tăng thiên địa, tam giới thiên chúa tứ phủ vạn linh đình thần tam phủ, (thiên phủ, địa phủ , thoải phủ) con xin tấu thỉnh Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát.
ĐẠI ĐỨC VUA CHA NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ, HỘI ĐỒNG VUA CHA.
Con xin tấu thỉnh ĐỨC PHẬT MẪU HOÀNG THIÊN, HỘI ĐỒNG THÁNH MẪU.
Con kính lạy: Ngũ Vị Vua Ba
Con kính lạy: Lục Bộ Công Đồng Trần Triều.
TIÊN CHÚA BÀ THEN.
Con kính lạy:
– THIÊN CÔNG CHÚA CÁT
– TƯỚNG THIÊN BỒNG THIÊN DU
‐ TƯỚNG LÔI CÔNG HỎA CÔNG
‐ TƯỚNG VẠN ÁC
– TƯỚNG HÁC
– TƯỚNG CAI BẢN
‐ TƯỚNG SƯU NGHIÊM
‐ TƯỚNG NAM HẢI
– TƯỚNG CÁ
– NỮ TƯỚNG NÀNG HAN
– CẬU BÉ BẢN ĐẾN
– NHỊ VỊ THỊ NỮ CÔNG ĐỒNG CHÚA THEN
– CON XIN KÍNH THỈNH CÁC VỊ THIÊN BINH THIÊN TƯỚNG MƯỜNG TRỜI xuân thiên ĐINH DẬU NIÊN ……….. NGUYỆT…………. NHẬT………THƠI (THEN NÀNG hoặc THEN CẬU CON). Họ tên………………. (…… phẩm ………… ) mệnh sinh ……. niên, hành canh………… TUỔI, ( phu quân hoặc hiền thê ) họ tên mệnh sinh …… niên, hành canh ……. tuế. ( Nam tử hoặc nữ tử ) họ tên – mệnh sinh …… niên , hành canh ….. tuế. Đồng gia môn quyến đẳng tại VIỆT NAM QUỐC……… ( THÀNH HOẶC TỈNH ) …… QUẬN……….. PHƯỜNG …….. LỘ ……. SỐ. Xin thành tâm tiền lễ nguyện cầu quốc thái dân an xây dựng đạo mẫu đạo then cựu ngôi trường tồn ( cầu gì tuỳ ý ) tấu thay lạy đỡ cho tín chủ nào trước khi làm Việc cứu nhân độ thế. Tấu tên tuổi của tín chủ, địa chỉ rõ ràng trước khi thừa hành pháp sự DẠ TẤU CÚI XIN BÁI THỈNH.
A Di Đà Phật !
A Di Đà Phật !
A Di Đà Phật !
5. Lịch sử Đền Bà Chúa Then:
Ngày 21 tháng giêng năm 1735, Lê Trung Hưng Triều tôn cấp lập thờ Thánh Bà Tổ Then (Chúa Then) phía trước, sau thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, tả thờ Đức Đại Vương Trần Quốc Tuấn, hữu thờ Chúa Sơn trang tại Lạng Sơn Phiên Trấn (dị bản Phụ Trùng Khánh) – châu Văn Lan, bản Nà Lùng. Hiện nay là thôn Nà Cốc, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Trải qua lịch sử, ngôi đền cổ vẫn còn nguyên vị trí cũ và còn lưu giữ được những hiện vật thờ tự cổ như hương án cổ, bộ lục bình, áo chàm cổ, đàn tính, chậu đồng, mâm đồng, bộ sóc nhạc, kiếm trừ tà vải bắc cầu, đồng đài xin âm dương bằng gỗ đều có niên đại hàng thế kỷ.
Ngôi đền được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng ban đầu chỉ là một ngôi đền nhỏ, nằm trong quần thể Tứ phủ (Nghi lễ Tam phủ) và thêm nữa, thờ một vị thần bà Chúa Then của một gia đình Trung Quốc đồng thời là vị thủ nhang ngôi đền.
Người Nùng Tày cho rằng bà là thần, cầu gì được nấy. Theo thần phả ghi lại, họ Liễu từ Trung Quốc từng sinh sống ở làng này đến lập miếu thờ và phụng sự chúa Then. Có người khi bị bệnh uống thuốc nam không khỏi bèn lên miếu xem bói, mua hương hoa trà về mà khỏi bệnh. Tin đồn lan rộng về ngôi đền thánh. Dân làng tin và khi có bệnh tật thì đi xem bói và làm lễ. Trong suốt những năm lịch sử hiện tại, ngôi đền vẫn tiếp tục đứng ở vị trí cũ như trước đây. Hiện nay, trong chùa còn lưu giữ được một chiếc lư cổ có khắc chữ “Thánh Cung vạn tuế”, một thanh gươm, một chiếc áo chàm của người Nùng và một đàn sóc, tất cả đều có giá trị trên 100 năm.
Năm 2016, trùng tu đền thờ ở các cung giữa tam phủ thờ Thánh Mẫu và bà chúa thủ đền Bà Chúa Then.