Mục lục bài viết
1. Tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
– Tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa:
Chủ quyền của khu vực Hoàng Sa đã trở thành trung tâm của cuộc tranh chấp giữa ba quốc gia, bao gồm Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan. Cả hai Việt Nam và Trung Quốc đều khẳng định mạnh mẽ quyền chủ quyền đối với Hoàng Sa. Trong năm 2007, diễn ra một số cuộc biểu tình nhằm phản đối chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa trên quần đảo này.
Việt Nam tiếp tục đề xuất quyền chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên các quy định của Công ước Luật Biển 1982. Lịch sử chủ quyền của khu vực này cũng gắn liền với sự kiểm soát trước đây của chính quyền Pháp ở Đông Dương, mà sau đó được Việt Nam nắm giữ, trừ hai đảo Phú Lâm và Linh Côn, do Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1956.
Năm 1974, Trung Quốc tiến hành một cuộc tấn công quân sự vào căn cứ của Việt Nam Cộng Hòa để chiếm giữ Hoàng Sa. Việt Nam và Đài Loan đều đang tiếp tục tuyên bố quyền chủ quyền đối với vùng biển này, làm nổi bật sự phức tạp và căng thẳng trong tranh chấp lãnh thổ này giữa các quốc gia.
– Tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Trường Sa.
Tranh chấp ở khu vực này là điều bất cập với sự tham gia của sáu quốc gia và lãnh thổ. Trong số này, Việt Nam kiểm soát 21 vị trí trong quần đảo, Trung Quốc kiểm soát 7 vị trí, Đài Loan giữ 2 vị trí, Philippin nắm giữ 10 vị trí, Malaysia chiếm 7 vị trí, và Brunei hiện chưa chiếm đóng vị trí nào. Tuy nhiên, Brunei cũng đã phản ánh rằng ranh giới biển và thềm lục địa trên bản đồ biển thể hiện một phần trùng lặp với khu vực phía nam của Trường Sa.
Thực tế, cuộc tranh chấp này xoay quanh vấn đề chủ quyền và lãnh thổ, được tạo ra bởi việc một số quốc gia trong khu vực đã áp dụng vũ lực hoặc các biện pháp khác để chiếm giữ một phần hoặc toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam ở Biển Đông. Để chứng minh, bảo vệ hoặc giải quyết các mâu thuẫn liên quan đến Biển Đông hoặc có liên quan đến các cơ quan tài phán quốc tế, việc áp dụng nguyên tắc chiếm hữu thật sự, một nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ, đang được sử dụng để xem xét giải quyết tranh chấp một cách thông thường nhất hiện nay.
Tuy nhiên, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 lại không chứa bất kỳ điều khoản nào quy định về các nguyên tắc này. Nói cách khác, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 không phải là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự phức tạp và mâu thuẫn trong việc áp dụng các nguyên tắc và luật lệ là một trong những thách thức lớn đối với việc xử lý các vấn đề này trong cộng đồng quốc tế.
2. Tranh chấp trong phân định biển và thềm lục địa chồng lấn tại Biển Đông:
Các cuộc tranh chấp này chủ yếu phát sinh khi các quốc gia áp dụng các quy tắc được quy định trong Công ước Luật Biển năm 1982 để xác định và định vị vùng biển của mình. Theo quy định này, có những vùng biển có thể chồng lấn giữa các quốc gia lân cận, và điều này thường dẫn đến các tranh chấp về chủ quyền và quyền lợi lãnh thổ.
Việc phân định ranh giới biển và thềm lục địa hiện nay đang là tâm điểm của các nỗ lực đàm phán và giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia liên quan. Đây là những vấn đề phức tạp, mà không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi lãnh thổ mà còn có tác động lớn đến quan hệ và hòa bình khu vực.
Một số tranh chấp về phân định biển và thềm lục địa đáng chú ý giữa Việt Nam và một số quốc gia trong khu vực Biển Đông bao gồm những vấn đề nhạy cảm như việc xác định ranh giới biển giữa các quốc gia, việc quản lý nguồn lợi từ biển, và việc định vị các cấu trúc cơ sở trên biển. Các cuộc đàm phán và thương lượng về những vấn đề này thường diễn ra đa phương và mất thời gian, đòi hỏi sự nhất quán và sự linh hoạt trong quan điểm của các bên để đạt được các thỏa thuận có lợi cho cả các quốc gia liên quan và vùng khu vực lân cận.
Và sau đây là một số tranh chấp về phân định biển và thềm lục địa giữa Việt Nam và một số nưóc trong khu vực biển Đông
– Với Trung Quốc đó là phần phân định biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ vẫn đang được tiếp tục đàm phán khi hai nước kí hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ.
– Với Malaysia hiện nay đang tồn tại vùng biển chồng lấn trên vịnh Thái Lan. Năm 1992 hai bên đã kí bản ghi nhớ thỏa thuận hợp tác thăm dò khai thác chung vùng chồng lấn và phối hợp trình báo chung về khu vực thềm lục địa kéo dài liên quan đến hai nước Liên Hợp Quốc năm 2009.
– Với Campuchia tranh chấp trên vùng vịnh Thái Lan, hai bên mới kí hiệp định về vùng nước lịch sử năm 1982, trong đó chỉ khẳng định hai nước xem vùng nước trên vịnh Thái Lan vùng nước lịch sử chung và sẽ thực hiện đàm phán phân định sau.
– Với Thái Lan hai bên có vùng chồng lấn trên Vịnh Thái Lan và kí hiệp định phân định thềm lục địa, đang tiếp tục đàm phán về vùng đặc quyền kinh tế năm 1997
– Với Indonesia hai bên đã ký kết phân định biển và thềm lục địa và đang tiếp tục đàm phán giải quyết ranh giới vùng đặc quyền kinh tế.
3. Một vài nét về tình hình Biển Đông hiện nay:
Biển Đông là một biển nửa kín được bao bọc bởi 9 quốc gia đó là Việt Nam, Trung Quốc bao gồm cả Đài Loan, Philippins, Malaysia, Brunay, Indonesia, Campuchia, Singapore. Biển Đông rộng khoảng 3.4 triệu km2
Biển Đông có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng bởi là cầu nối giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông- châu Á. Là cầu nối giao lưu thương mại giữa các nước với nhau, không chỉ thế biển Đông còn là khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản các loại như dầu,khí đốt,và các khoáng sản như sắt,cát thủy tinh, titan… và nguồn thủy sản với trữ lượng vô cùng lớn. Bên cạnh đó biển Đông là tuyến vận tải nhộn nhịp lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau tuyến Địa Trung Hải, mỗi ngày có từ 150 đến 200 tàu thuyền các loại qua biển Đông và có đến hơn 90% thương mại vận chuyển qua biển thì có đến 45% là vận chuyển qua biển Đông. Bởi vậy, biển Đông có thể được xem là tài sản vô giá đối với các quốc gia.
Eo biển Ma – lắc- ca là eo biển nằm giữa bán đảo Malay và đảo Sumatra, nối biển Đông và Ấn Độ Dương, eo biển này dài khoảng 805km. Cho nên eo biển này có vài trò hết sức quan trọng đối với an ninh,giao thông hàng hải và kinh tế.
Các đảo trên biển Đông có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều quốc gia ven biển bởi đó là nơi thuận tiện để xây dựng các trạm dừng chân, trạm thông tin và khu tiếp nhận nhiên liệu cho tàu thuyền, phục vụ cho tuyến hàng hải trên biển Đông.
Biển Đông là khu vực có nhiều tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia. Các quốc gia chủ quyền ở Biển Đông được xác định dựa trên các lãnh thổ và quần đảo mà họ kiểm soát, trong đó có:
– Việt Nam: Việt Nam có chủ quyền đối với nhiều quần đảo và cấu trúc trên Biển Đông, bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa. Quốc gia này đã lâu nay khẳng định chủ quyền dựa trên lịch sử và bằng chứng địa lý.
– Trung Quốc: Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền lên Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên lịch sử. Trung Quốc xem xét các đảo này là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc từ lâu.
– Philippines: Quốc gia này kiểm soát và có chủ quyền đối với một số đảo và cấu trúc như Thị Trấn Thitu (Pag-asa), cũng như một số hòn đảo khác trong quần đảo Trường Sa.
– Malaysia: Malaysia đang kiểm soát và có quyền lợi lãnh thổ đối với một số cấu trúc trên biển, bao gồm đảo Swallow và đảo Erica trong quần đảo Trường Sa.
– Đài Loan: Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền đối với một số hòn đảo và cấu trúc trong quần đảo Trường Sa.
– Brunei: Brunei chưa chiếm đóng bất kỳ đảo nào ở Biển Đông, nhưng họ cũng có một số quyền lợi lãnh thổ tại khu vực này.
Các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông thường xuyên xảy ra giữa các quốc gia này và đôi khi dẫn đến căng thẳng về lãnh thổ, tài nguyên và quyền lợi trên biển