Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản là ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới sau thế chiến thứ 2. Vậy từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2000, tình hình kinh tế, chính trị và chính sách đối ngoại của ba trung tâm kinh tế - tài chính này có điểm gì nổi bật? Đâu là nguyên nhân chung dẫn đến sự phát triển kinh tế của 3 trung tâm này?
Mục lục bài viết
1. Bối cảnh nền kinh tế thế giới sau Thế chiến thứ 2:
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai nền kinh tế toàn cầu rơi vào tình trạng khủng hoảng chồng khủng hoảng, với hậu quả mà chiến tranh để lại khiến nền kinh tế và yếu tố con người tổn thất nặng nề đặc biệt đối với các nước thua trận trong thế chiến thứ 2. Đứng trước tình hình này đặt ra vô vàn thử thách đối với cả thế giới để nhằm khôi phục và phát triển nền kinh tế. Sau thế chiến thứ hai nền kinh tế thế giới đã chịu nhiều chao đảo và chịu nhiều tác động xung lực. Một mặt, hiệu quả điều tiết vĩ mô của nhà nước chỉ phát huy tác dụng trong phạm vi của từng quốc gia. Mặt khác, sức mạnh điều tiết đối với thị trường toàn cầu, nhất là đối với thị trường vốn của các tổ chức quốc tế vẫn còn chưa thực hiện đầy đủ. Các nhân tố phát triển theo chiều rộng đã cạn dần, trong khi đó các nhân tố phát triển theo chiều sâu lại chưa phát huy được hết tác dụng mạnh mẽ.
2. Nền kinh tế Mỹ sau Thế chiến thứ 2:
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Mỹ trở thành nước giàu nhất, nắm ưu thế hơn hẳn về kinh tế tài chính trên toàn thế giới. Trong khoảng hai thập niên đầu sau chiến tranh (50,60), Mỹ là trung tâm kinh tế – tài chính duy nhất trên thế giới.
Nguyên nhân kinh tế Mỹ phát triển là do đất nước không bị chiến tranh tàn phá đồng thời thay vì chịu ảnh hưởng từ cuộc chiến tranh thì Mỹ lại giành được nhiều quyền lợi trong hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai bằng việc buôn bán vũ khí. Với lợi thế là một quốc gia rộng lớn, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, cùng nguồn nhân lực tri thức dồi dài từ khắp nơi trên thế giới đổ về, trình độ khoa học – kỹ thuật cao cũng là cái nôi của nhiều thành tự khoa học – kỹ thuật.
Tuy nhiên, khi bước sang giai đoạn 1973 – 1991, nền kinh tế Mỹ không còn giữ được địa vị độc tôn trong kinh tế tài chính thế giới, nhiều mặt và lĩnh vực kinh tế, tài chính của Mỹ đã bị Tây Âu và Nhật Bản vượt qua. Từ 1991 đến nay, mặc rù vẫn giữ được vị trí số một trên thế giới và nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu của sự phục hồi nhưng nền kinh tế của Mỹ không còn phát triển mạnh mẽ như trước kia nữa.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng vị trí kinh tế của Mỹ đã có sự suy giảm đáng kể do sự vươn lên mạnh mẽ của Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và một số các quốc gia khác.
Một số hạn chế của nền kinh tế Mỹ là kinh tế phát triển nhanh nhưng không ổn định, phụ thuộc quá nhiều vào chiến tranh; sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn dẫn đến tạo nên sự bất ổn định về Kinh tế – Chính trị – Xã hội; việc tăng cường chạy đua vũ trang làm giảm tiềm lực về sức cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ và nợ nước ngoài ngày càng tăng.
3. Nền kinh tế Tây Âu sau Thế chiến thứ 2:
Tây Âu gồm các nhóm nước tư bản có trình độ phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật ở mức cao. Tên gọi Tây Âu chủ yếu nhằm phân biệt với Đông Âu là các nhóm nước xã hội chủ nghĩa. Sau khi khôi phục nền kinh tế bị tàn phá do chiến tranh, các nước Tây Âu bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều sự thay đổi lớn, trong đó nổi bật là liên kết kinh tế – chính trị giữa các quốc gia.
Giai đoạn từ 1950 – 1973, kinh tế các nước Tây Âu phát triển nhanh: Đức trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ 3 trên thế giới, Anh thứ 4, Pháp thứ 5. Tới đầu thập niêm 70, Tây Âu trở thành một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính thế giới. Các nước tây Âu một mặt tiếp tục liên minh với Mỹ, mặt khác đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Một số nước khẳng định ý thức độc lập và ít lệ thuộc vào Mỹ ( Pháp, Phần Lan, Thụy Điển..). Các nước từ bỏ hệ thống thuộc địa rộng lớn, mở ra thời kỳ ” phi thực dân hóa” trên phạm vi thế giới; đồng thời cải thận quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, các nước Châu Á – Thái Bình Dương.
Giai đoạn từ 1973 – 1991, tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng 1973, kinh tế các nước Tây Âu bị suy thoái, khủng hoảng; bị kinh tế Mỹ, Nhật Bản, các nước công nghiệp mới NICs cạnh tranh quyết liệt; quá trình nhất thể hóa Châu Âu, xây dựng một thị trường chung thống nhất gặp nhiều trở ngại. Vấn đề căng thẳng nhất là quan hệ giữa hai miền nước Đức. Năm 1975, Định ước Henxinki được ký kết mở ra khả năng hợp tác an ninh ở Châu Âu.
Đầu thập kỷ 90, nền kinh tế Tây Âu phải trải qua một đợt suy thoái, đến năm 1994, kinh tế Tây Âu mới phục hồi và phát triển nhưng khu vực này vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn nhất thế giới. Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỉ 20, tình hình tại khu vực Tây Âu tương đối ổn định nhưng chính sách đối ngoại có điều chỉnh quan trọng. Nước Anh vẫn liên minh chặt chẽ với Mĩ, còn Pháp và Đức trở thành đối trọng với Mĩ trong nhiều vấn đề quốc tế. Các nước Tây Âu đã mở rộng quan hệ với các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Mĩ Latinh…
Ngày 25/3/1957, sáu nước Tây Âu gồm: Pháp, CHLB Đức, Bỉ, Italia, Hà Lan và Lúcxămbua kí Hiệp ước Rôma thành lập cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu và Cộng đồng kinh tế châu Âu (EC).
Ngày 7/12/1991, các nước kí Hiệp ước Maxtrích tại Hà Lan đổi tên thành Liên minh châu Âu với 15 quốc gia thành viên nhằm mục tiêu hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, tiền tệ, chính trị, đối ngoại và an ninh. EU trở thành tổ chức kinh tế – chính trị lớn nhất hành tinh. Năm 1990, Việt Nam và EU thiết lập quan hệ chính thức và đến tháng 7/1995 kí Hiệp định hợp tác toàn diện.
4. Nền kinh tế Nhật Bản sau Thế chiến thứ 2:
Nhật bản là quốc gia thua trận trong thế chiến thứ 2 vì vậy mà sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc nền kinh tế nước Nhật lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng; thiếu năng lượng, lạm phát kinh tế, vấn nạn thất nghiệp…Đất nước Nhật Bản bị quân đội Mỹ chiếm đóng. Hầu hết các cơ sở sản xuất đều được chuyển sang sản xuất phục vụ chiến tranh, trong đó phần lớn bị phá hủy trong cuộc chiến. 6 triệu lính và người dân Nhật từ khắp các vùng chiến sự ở Thái Bình Dương quay trở về nước, Chính phủ nước này phải đối diện với gánh nặng – thất nghiệp.
Bắt đầu từ 1945 đến 1950: Thời kỳ phục hồi kinh tế, nền kinh tế Nhật Bản phát triển chậm phụ thuộc vào nền kinh tế Mỹ và cải cách kinh tế trong nước. Đến 1973, sự phát triển nhanh chóng với tốc độ ” thần kỳ” giúp cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển cao, trở thành cường quốc kinh tế tư bản đứng thứ hai sau Mỹ và trở thành một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính của thế giới.
Năm 1960, ngành công nghiệp ô tô của Nhật đứng hàng thứ 6 trên thế giới tư bản và đến năm 1967 vươn lên hàng thứ 2 sau Mỹ.
Công nghiệp đóng tàu đến những năm 1970 chiếm 50% tổng số tàu biển và có sáu trong mười nhà máy đóng tàu lớn nhất thế giới tư bản.
Tuy nhiên, từ 1973 -2000, Nhật Bản đối mặt với cuộc khủng hoảng năng lượng kéo theo đó là những suy thoái kinh tế và sau cuộc khủng hoảng đó, Nhật Bản tập trung phát triển kinh tế theo chiều sâu.
Nguyên nhân của sự phát triển:
Thứ nhất, Nhật lợi dụng sự bảo trợ về quân sự của Mỹ, ít phải chi tiêu về quân sự ( dưới 1% GPA), nên tập trung vốn phát triển công nghiệp, xây dựng kinh tế;
Thứ hai, Những cải cách dân chủ sau chiến tranh tạo điều kiện thức đẩy phát triển kinh tế;
Thứ ba, Biên chế nhà nước và bộ máy hành chính của Nhật Bản hết sức gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả cao;
Thứ tư, Truyền thống “tự lực, tự cường” của nhân dân vươn lên xây dựng đất nước, cộng với tài điều hành kinh tế của giới kinh doanh và vai trò điều tiết của nhà nước.
Một số hạn chế của sự phát triển: nền kinh tế mất cân đối; tập trung quá mức vốn nhân lực vào ba trung tâm công nghiệp: Tokyo, Osaka và Nagoya; thiếu tài nguyên năng lượng, nguyên liệu, lương thực; sự cạnh tranh, chèn ép của Mỹ, Tây Âu, Trung Quốc và các nước NICs; sự phân hóa giàu nghèo và mâu thuẫn xã hội ngày càng tăng; sự già hóa về dân số, thiên tai xảy ra thường xuyên,..
5. Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm gì từ sự phát triển đó?
Một trong những nguyên nhân lớn tác động đến sự phát triển của ba trung tâm kinh tế – tài chính trên chính là cách mạng khoa học – kỹ thuật. Các nước phát triển, đặc biệt là các nước tư bản chủ nghĩa trong đó có Mĩ đã ứng dụng nhiều thành tựu khoa học – kĩ thuật hiện đại vào sản xuất giúp tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm. Sau 20 năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ trở thành những trung tâm kinh tế tài – chính lớn nhất thế giới. Chính vì thế, để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Việt Nam cần ứng dụng các thành tựu khoa học – kĩ thuật vào sản xuất, lấy đó làm nhân tố nòng cốt tạo nên sự tăng trưởng nhanh về kinh tế. Mặc dù hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển, nhưng bằng sự cố gắng không ngừng của Đảng và Nhà nước, cùng ủng hộ của nhân dân, tin chắc rằng trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ trở thành một trong những cường quốc lớn trên thế giới, phát triển toàn diện về mọi mặt.