Bài thơ "Việt Bắc" không chỉ là sự tỏ lòng yêu nước và lòng trung thành với tổ quốc, mà còn là một tấm gương lớn về tinh thần đấu tranh và ý chí của nhân dân Việt Nam. Từng câu thơ của bài thơ mang trong mình những cảm xúc mãnh liệt và tràn đầy ý nghĩa về tình yêu và hy sinh cho đất nước.
Mục lục bài viết
1. Nội dung bài thơ Việt Bắc:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.
Nước trôi nước có về nguồn
Mây đi mây có cùng non trở về?
Mình về, ta gửi về quê
Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai
Nâu này nhuộm áo không phai
Cho lòng thêm đậm, cho ai nhớ mình.
Trâu về, xanh lại Thái Bình
Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi.
Nước trôi, lòng suối chẳng trôi
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà.
Nứa mai mình gửi quê nhà
Nước non đâu cũng là ta với mình.
Thái Bình đồng lại tươi xanh
Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui…
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi, ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?
Đường về, đây đó gần thôi!
Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao, chẳng khuất non xanh
Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường.
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về.
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.
Mái trường ngói mới đỏ tươi
Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng
Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh.
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông
Áo em thêu chỉ biếc hồng
Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi
Còn non, còn nước, còn trời
Bác Hồ thêm khoẻ, cuộc đời càng vui!
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người…
Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
2. Tác giả Tố Hữu :
Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại Huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, nơi đã truyền đạt cho ông niềm đam mê và tình yêu sâu sắc đối với quê hương và dân tộc.
Tố Hữu đã sớm giác ngộ tư tưởng cách mạng và đồng lòng với những ý chí cách mạng của dân tộc. Ông đã tích cực tham gia, hang say hoạt động và kiên cường chiến đấu vì sự độc lập, tự do và công bằng của quê hương. Với sự tận tụy và sự hy sinh không ngừng, ông đã đóng góp đáng kể vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Không chỉ là một nhà văn, Tố Hữu còn đảm nhiệm nhiều vai trò trọng yếu trong mặt trận văn hóa cũng như trong bộ máy lãnh đạo Đảng. Ông được biết đến là một trong những nhà thơ cách mạng hàng đầu của Việt Nam, người đã gắn bó với những chặng đường cách mạng của dân tộc và truyền tải tinh thần yêu nước qua những tác phẩm của mình.
Tác phẩm thơ của Tố Hữu không chỉ đơn thuần là những vần thơ, mà còn là những hành trình đi qua những chặng đường cách mạng của dân tộc, mang đậm tinh thần yêu nước và tình yêu đồng bào. Những bài thơ của ông truyền đạt một thông điệp sâu sắc về tình yêu đất nước, sự hi sinh và những giá trị cốt lõi của cuộc sống. Qua những câu thơ ngọt ngào và tâm tình, Tố Hữu đã tạo nên một cung điệu thi ca độc đáo, khiến người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn ngữ mà còn hiểu thêm về lịch sử và văn hóa dân tộc.
Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu là sự kết hợp giữa trữ tình và chính trị, thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Những bài thơ của ông không chỉ mang đến giọng thơ ngọt ngào và tâm tình, mà còn truyền tải những thông điệp sâu sắc về tình yêu đất nước, sự hi sinh và những giá trị cốt lõi của cuộc sống. Từ những câu thơ tưởng chừng như nhỏ bé, Tố Hữu đã khéo léo lồng ghép những suy nghĩ sâu xa và triết lý nhân sinh, mang lại cho người đọc những cảm xúc và suy ngẫm không thể nào quên.
Tố Hữu đã để lại một di sản văn hóa vô giá cho dân tộc Việt Nam. Những tác phẩm thơ của ông vẫn được trân trọng và truyền bá cho thế hệ sau, góp phần làm nên tinh thần và nhận thức cách mạng của người Việt Nam. Ông là nguồn cảm hứng không tận cho những người trẻ yêu thơ và yêu nghệ thuật, đồng thời là một biểu tượng văn hóa và tinh thần của dân tộc.
3. Hoàn cảnh ra đời bài thơ “Việt Bắc”:
Sau chiến thắng lịch sử tại Điện Biên Phủ vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết và hoà bình được thực hiện, mở ra một trang sử mới cho đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng. Đó là thời điểm quan trọng đánh dấu sự kết thúc của cuộc chiến chống thực dân Pháp và đồng thời mở ra một tương lai rạng rỡ cho dân tộc Việt Nam.
Vào tháng 10 năm 1954, các cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ đã rời xa chiến khu Việt Bắc, nơi đã từng là nơi che chở, nuôi dưỡng cho cách mạng trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Việt Bắc đã trở thành biểu tượng của sự đấu tranh và hy sinh của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến lịch sử này.
Trong bối cảnh quan trọng đó, Tố Hữu – một cán bộ kiên cường của Đảng và một nhà thơ vĩ đại của cách mạng – đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ này không chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học, mà còn là một bức tranh chân thực và sâu sắc về thời kỳ kháng chiến chống thực dân, từng ngày đánh giặc và chiến thắng lịch sử.
Bài thơ “Việt Bắc” không chỉ là sự tỏ lòng yêu nước và lòng trung thành với tổ quốc, mà còn là một tấm gương lớn về tinh thần đấu tranh và ý chí của nhân dân Việt Nam. Từng câu thơ của bài thơ mang trong mình những cảm xúc mãnh liệt và tràn đầy ý nghĩa về tình yêu và hy sinh cho đất nước.
Bài thơ “Việt Bắc” đã được chọn làm tên chung cho cả tập thơ của Tố Hữu, tập thể hiện tinh thần và ý chí của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng và được ngưỡng mộ, góp phần tuyên truyền ý chí đấu tranh và thể hiện cái tôi của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến đấu cho độc lập và tự do.
Bài thơ “Việt Bắc” vẫn đọng lại trong lòng người dân Việt Nam, như một kỷ niệm vĩnh cửu về những ngày đánh giặc đầy khó khăn và những chiến công lịch sử đã giúp đất nước giành lại tự do và độc lập. Đó là một tác phẩm văn học quan trọng không chỉ vì giá trị nghệ thuật mà còn vì vai trò của nó trong việc ghi nhớ và truyền lưu truyền lịch sử của dân tộc.