Trong kinh tế học, bảo hiểm và quản lý rủi ro, lựa chọn bất lợi hay còn gọi là lựa chọn đối nghịch là một tình huống thị trường mà người mua và người bán có thông tin khác nhau. Vậy lựa chọn đối nghịch là gì? Ứng dụng và giải pháp trong tài chính?
Mục lục bài viết
1. Lựa chọn đối nghịch là gì?
– Lựa chọn đối nghịch hay còn gọi là lựa chọn bất lợi nói chung là tình huống mà người bán có thông tin mà người mua không có, hoặc ngược lại, về một số khía cạnh của chất lượng sản phẩm. Nói cách khác, đó là trường hợp thông tin bất cân xứng được khai thác. Thông tin bất cân xứng , còn được gọi là lỗi thông tin, xảy ra khi một bên tham gia giao dịch có kiến thức quan trọng hơn bên kia.
– Trong một thế giới lý tưởng, người mua nên trả một mức giá phản ánh sự sẵn sàng trả của họ và giá trị của sản phẩm hoặc dịch vụ đối với họ, và người bán nên bán ở mức giá phản ánh chất lượng hàng hóa và dịch vụ của họ.
– Ví dụ, một sản phẩm chất lượng kém sẽ không đắt và một sản phẩm chất lượng cao sẽ có giá cao. Tuy nhiên, khi một bên nắm giữ thông tin mà bên kia không có, họ có cơ hội gây thiệt hại cho bên kia bằng cách tối đa hóa lợi ích bản thân, che giấu thông tin liên quan và thậm chí có thể nói dối. Lợi dụng hợp đồng kinh tế hoặc buôn bán để sở hữu thông tin không được tiết lộ được gọi là lựa chọn bất lợi .
– Cơ hội này có tác dụng phụ: bên không có thông tin có thể thực hiện các bước để tránh giao kết hợp đồng không công bằng (có thể là “gian lận”), có thể bằng cách rút khỏi tương tác hoặc người bán (người mua) yêu cầu giá cao hơn (thấp hơn), do đó giảm khối lượng giao dịch trên thị trường. Hơn nữa, nó có thể ngăn cản mọi người tham gia vào thị trường, dẫn đến ít cạnh tranh hơn và do đó tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho những người tham gia.
– Lựa chọn đối nghịch tên tiếng Anh là: ” Adverse selection“
2. Ứng dụng tài chính:
* Ứng dụng:
– Lựa chọn đối nghịch xảy ra khi một bên trong đàm phán có thông tin liên quan mà bên kia thiếu. Sự bất cân xứng của thông tin thường dẫn đến việc đưa ra các quyết định tồi, chẳng hạn như kinh doanh nhiều hơn với các phân khúc thị trường ít lợi nhuận hơn hoặc rủi ro hơn .
– Người bán có thể có thông tin tốt hơn người mua về các sản phẩm và dịch vụ đang được cung cấp, khiến người mua gặp bất lợi trong giao dịch. Ví dụ, các nhà quản lý của một công ty có thể sẵn sàng phát hành cổ phiếu hơn khi họ biết giá cổ phiếu được định giá quá cao so với giá trị thực ; người mua có thể mua cổ phiếu được định giá quá cao và mất tiền. Trong thị trường ô tô cũ, người bán có thể biết về lỗi của chiếc xe và tính phí người mua nhiều hơn mà không cần tiết lộ vấn đề.
– Do lựa chọn bất lợi, các công ty bảo hiểm nhận thấy rằng những người có rủi ro cao sẵn sàng bỏ ra hơn và trả phí bảo hiểm lớn hơn cho các hợp đồng. Nếu công ty tính giá trung bình nhưng chỉ những người tiêu dùng có rủi ro cao mới mua, thì công ty sẽ bị thiệt hại về tài chính khi trả nhiều quyền lợi hoặc yêu cầu hơn .
– Tuy nhiên, bằng cách tăng phí bảo hiểm cho các chủ hợp đồng có rủi ro cao, công ty có nhiều tiền hơn để chi trả các lợi ích đó. Ví dụ, một công ty bảo hiểm nhân thọ tính phí bảo hiểm cao hơn cho người điều khiển xe đua. Một công ty bảo hiểm xe hơi tính phí cao hơn cho những khách hàng sống trong các khu vực tội phạm cao. Một công ty bảo hiểm sức khỏe tính phí bảo hiểm cao hơn cho những khách hàng hút thuốc. Ngược lại, những khách hàng không tham gia vào các hành vi rủi ro thì ít có khả năng chi trả tiền bảo hiểm hơn do chi phí hợp đồng ngày càng tăng.
– Một ví dụ điển hình của lựa chọn bất lợi liên quan đến bảo hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm sức khỏe là một người hút thuốc đã thành công trong việc nhận được bảo hiểm với tư cách là một người không nghiện thuốc lá. Hút thuốc là một yếu tố rủi ro chính được xác định đối với bảo hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm sức khỏe, vì vậy người hút thuốc phải trả phí bảo hiểm cao hơn để có được mức bảo hiểm tương tự như người không hút thuốc.
– Bằng cách che giấu hành vi lựa chọn hút thuốc của mình, người nộp đơn đang dẫn dắt công ty bảo hiểm đưa ra quyết định về bảo hiểm hoặc chi phí phí bảo hiểm có hại cho việc quản lý rủi ro tài chính của công ty bảo hiểm.
– Một ví dụ khác về lựa chọn đối nghịch trong trường hợp bảo hiểm ô tô sẽ là một tình huống mà người nộp đơn nhận được bảo hiểm dựa trên việc cung cấp địa chỉ cư trú trong một khu vực có tỷ lệ tội phạm rất thấp khi người nộp đơn thực sự sống trong một khu vực có tỷ lệ tội phạm rất cao. . Rõ ràng, nguy cơ chiếc xe của người nộp đơn bị đánh cắp, phá hoại hoặc bị hư hỏng nếu thường xuyên đậu trong khu vực tội phạm cao về cơ bản cao hơn đáng kể so với nếu chiếc xe đó thường xuyên đậu trong khu vực ít tội phạm.
– Lựa chọn đối nghịch có thể xảy ra ở quy mô nhỏ hơn nếu người nộp đơn nói rằng chiếc xe đó đang đậu trong nhà để xe mỗi đêm khi nó thực sự được đậu trên một con phố đông đúc.
3. Giải pháp trong tài chính:
– Giống như lựa chọn đối nghịch , rủi ro đạo đức xảy ra khi có thông tin không cân xứng giữa hai bên, nhưng khi sự thay đổi trong hành vi của một bên được bộc lộ sau khi giao dịch được thực hiện. Lựa chọn bất lợi xảy ra khi thiếu thông tin đối xứng trước khi giao dịch giữa người mua và người bán.
– Rủi ro đạo đức là rủi ro mà một bên đã không giao kết hợp đồng một cách thiện chí hoặc cung cấp thông tin chi tiết sai lệch về tài sản, nợ phải trả hoặc khả năng tín dụng của mình. Ví dụ, trong lĩnh vực ngân hàng đầu tư , có thể biết rằng các cơ quan quản lý của chính phủ sẽ cứu trợ các ngân hàng thất bại; do đó, các nhân viên ngân hàng có thể chấp nhận rủi ro quá mức để ghi được các khoản tiền thưởng sinh lợi khi biết rằng nếu các khoản đặt cược rủi ro của họ không thành công, thì dù thế nào thì ngân hàng cũng sẽ được cứu.
– Vấn đề khó khăn tồn tại trên thị trường cho cả sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm kinh doanh, và cả trong lĩnh vực đầu tư, liên quan đến sự chênh lệch về giá trị cảm nhận của một khoản đầu tư giữa người mua và người bán. Vấn đề trái chanh cũng phổ biến trong các lĩnh vực tài chính, bao gồm cả thị trường bảo hiểm và tín dụng. Ví dụ, trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, người cho vay có thông tin không cân xứng và kém lý tưởng về mức độ tín nhiệm thực tế của người đi vay.