Nới lỏng định lượng (QE) là một hình thức chính sách tiền tệ được các ngân hàng trung ương sử dụng như một phương pháp nhằm tăng nhanh lượng cung tiền trong nước và thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vậy quy định về giảm nhẹ định lượng được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Giảm nhẹ định lượng (QE) là gì?
– Khái niệm giảm nhẹ định lượng (QE):
Nới lỏng định lượng (QE) là một hình thức của chính sách tiền tệ độc đáo, trong đó ngân hàng trung ương mua chứng khoán dài hạn hơn từ thị trường mở để tăng cung tiền và khuyến khích cho vay và đầu tư. Việc mua các chứng khoán này sẽ bổ sung thêm tiền mới cho nền kinh tế, đồng thời cũng giúp giảm lãi suất bằng cách đấu thầu các chứng khoán có thu nhập cố định. Nó cũng mở rộng bảng cân đối của ngân hàng trung ương.
Khi lãi suất ngắn hạn bằng hoặc gần bằng 0, các hoạt động thị trường mở thông thường của ngân hàng trung ương, vốn đặt lãi suất mục tiêu, sẽ không còn hiệu quả nữa. Thay vào đó, ngân hàng trung ương có thể nhắm mục tiêu số lượng tài sản cụ thể để mua. Nới lỏng định lượng làm tăng cung tiền bằng cách mua tài sản bằng nguồn dự trữ ngân hàng mới được tạo ra để cung cấp cho các ngân hàng nhiều thanh khoản hơn.
– Việc nới lỏng định lượng thường liên quan đến việc ngân hàng trung ương của một quốc gia mua trái phiếu chính phủ dài hạn hơn, cũng như các loại tài sản khác, chẳng hạn như chứng khoán được đảm bảo bằng thế chấp (MBS). Để đối phó với sự suy thoái kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra, vào ngày 15 tháng 3 năm 2020, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã công bố kế hoạch nới lỏng định lượng hơn 700 tỷ USD.
Sau đó, vào ngày 10 tháng 6 năm 2020, sau một thời gian ngắn nỗ lực giảm bớt, Fed đã mở rộng chương trình của mình, cam kết mua ít nhất 80 tỷ đô la một tháng trong Kho bạc và 40 tỷ đô la chứng khoán được bảo đảm bằng thế chấp, cho đến khi có thông báo mới.
2. Đặc điểm của nới lỏng Định lượng (QE):
Để thực hiện nới lỏng định lượng, các ngân hàng trung ương tăng cung tiền bằng cách mua trái phiếu chính phủ và các chứng khoán khác. Tăng cung tiền làm giảm lãi suất. Khi lãi suất thấp hơn, ngân hàng có thể cho vay với các kỳ hạn dễ dàng hơn. Việc nới lỏng định lượng thường được thực hiện khi lãi suất đã gần bằng 0, bởi vì, tại thời điểm này, các ngân hàng trung ương có ít công cụ hơn để tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Nếu chính sách nới lỏng định lượng mất hiệu lực, chính sách tài khóa của chính phủ cũng có thể được sử dụng để mở rộng cung tiền hơn nữa. Về phương pháp, nới lỏng định lượng có thể là sự kết hợp của cả chính sách tiền tệ và tài khóa; ví dụ, nếu chính phủ mua tài sản bao gồm trái phiếu chính phủ dài hạn đang được phát hành để tài trợ cho chi tiêu thâm hụt trái chu kỳ.
– Các lưu ý đặc biệt: Nếu các ngân hàng trung ương tăng cung tiền, nó có thể tạo ra lạm phát. Kịch bản xấu nhất có thể xảy ra đối với một ngân hàng trung ương là chiến lược nới lỏng định lượng của ngân hàng này có thể gây ra lạm phát mà không tăng trưởng kinh tế như dự kiến. Tình trạng kinh tế có lạm phát nhưng không tăng trưởng kinh tế được gọi là lạm phát đình trệ.
Mặc dù hầu hết các ngân hàng trung ương được thành lập bởi chính phủ của quốc gia của họ và có một số giám sát quản lý, nhưng họ không thể buộc các ngân hàng ở quốc gia của họ tăng hoạt động cho vay. Tương tự như vậy, các ngân hàng trung ương không thể buộc người đi vay tìm kiếm các khoản vay và đầu tư. Nếu nguồn cung tiền tăng lên do nới lỏng định lượng không hoạt động qua các ngân hàng và vào nền kinh tế, thì nới lỏng định lượng có thể không hiệu quả (ngoại trừ như một công cụ để tạo điều kiện cho chi tiêu thâm hụt).
Một hệ quả tiêu cực khác của việc nới lỏng định lượng là nó có thể phá giá đồng nội tệ. Trong khi đồng tiền mất giá có thể giúp các nhà sản xuất trong nước vì hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn trên thị trường toàn cầu (và điều này có thể giúp kích thích tăng trưởng), giá trị đồng tiền giảm khiến hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt hơn. Điều này có thể làm tăng chi phí sản xuất và mức giá tiêu dùng.
Từ năm 2009 đến năm 2014, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã thực hiện một chương trình nới lỏng định lượng bằng cách tăng cung tiền. Điều này có tác động làm tăng phần tài sản trong bảng cân đối của Cục Dự trữ Liên bang, khi nó mua trái phiếu, thế chấp và các tài sản khác. Các khoản nợ của Cục Dự trữ Liên bang, chủ yếu tại các ngân hàng Hoa Kỳ, đã tăng tương đương và đạt hơn 4 nghìn tỷ đô la vào năm 2017. Mục tiêu của chương trình này là để các ngân hàng cho vay và đầu tư những khoản dự trữ đó để kích thích tăng trưởng kinh tế nói chung.
Tuy nhiên, những gì thực sự đã xảy ra là các ngân hàng giữ phần lớn số tiền đó như là dự trữ vượt mức. Vào thời kỳ đỉnh điểm tiền coronavirus, các ngân hàng Hoa Kỳ đã nắm giữ 2,7 nghìn tỷ đô la dự trữ vượt mức, đây là một kết quả bất ngờ của chương trình nới lỏng định lượng của Cục Dự trữ Liên bang.
Hầu hết các nhà kinh tế tin rằng chương trình nới lỏng định lượng của Cục Dự trữ Liên bang đã giúp giải cứu nền kinh tế Hoa Kỳ (và có thể là cả thế giới) sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Tuy nhiên, tầm quan trọng của vai trò của nó trong sự phục hồi sau đó thực sự không thể định lượng được. Các ngân hàng trung ương khác đã cố gắng triển khai nới lỏng định lượng như một phương tiện chống suy thoái và giảm phát ở quốc gia của họ với những kết quả không thuyết phục tương tự.
3. Ví dụ về giảm nhẹ định lượng là gì?
Ví dụ về Giảm nhẹ định lượng: au cuộc Khủng hoảng Tài chính Châu Á năm 1997, Nhật Bản rơi vào suy thoái kinh tế.6 Bắt đầu từ năm 2001, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) – Ngân hàng trung ương Nhật Bản – đã bắt đầu một chương trình nới lỏng định lượng tích cực nhằm hạn chế giảm phát và kích thích nền kinh tế. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã chuyển từ mua trái phiếu chính phủ Nhật Bản sang mua nợ tư nhân và cổ phiếu. Tuy nhiên, chiến dịch nới lỏng định lượng đã không đạt được mục tiêu của nó. Từ năm 1995 đến năm 2007, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật Bản đã giảm từ khoảng 5,45 nghìn tỷ USD xuống còn 4,52 nghìn tỷ USD trên danh nghĩa, bất chấp những nỗ lực của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản.
Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ (SNB) cũng đã áp dụng chiến lược nới lỏng định lượng sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Cuối cùng, SNB đã sở hữu tài sản vượt quá sản lượng kinh tế hàng năm của cả nước. Điều này khiến phiên bản nới lỏng định lượng của SNB trở thành phiên bản lớn nhất trên thế giới (tính theo tỷ lệ trên GDP của một quốc gia). Mặc dù tăng trưởng kinh tế khả quan ở Thụy Sĩ, nhưng vẫn chưa rõ mức độ phục hồi sau đó có thể là do chương trình nới lỏng định lượng của SNB. Ví dụ, mặc dù lãi suất được đẩy xuống dưới 0%, SNB vẫn không thể đạt được mức lạm phát của nó. mục tiêu.
Vào tháng 8 năm 2016, Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) thông báo rằng họ sẽ khởi động một chương trình nới lỏng định lượng bổ sung để giúp giải quyết bất kỳ phân nhánh kinh tế tiềm ẩn nào của Brexit. Kế hoạch là để BoE mua 60 tỷ bảng trái phiếu chính phủ và 10 tỷ bảng nợ doanh nghiệp. Kế hoạch này nhằm mục đích giữ cho lãi suất không tăng ở Anh và cũng để kích thích đầu tư kinh doanh và việc làm.
Từ tháng 8 năm 2016 đến tháng 6 năm 2018, Văn phòng Thống kê Quốc gia tại Vương quốc Anh đã báo cáo rằng tổng hình thành vốn cố định (một biện pháp đầu tư kinh doanh) đang tăng với tốc độ trung bình hàng quý là 0,4%. Con số này thấp hơn tỷ lệ trung bình từ năm 2009 đến năm 2018. Do đó, các nhà kinh tế được giao nhiệm vụ cố gắng xác định xem liệu tăng trưởng có tồi tệ hơn hay không nếu không có chương trình nới lỏng định lượng này.
Vào ngày 15 tháng 3 năm 2020, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã công bố kế hoạch thực hiện việc mua tài sản lên tới 700 tỷ đô la như một biện pháp khẩn cấp để cung cấp thanh khoản cho hệ thống tài chính Hoa Kỳ. Quyết định này được đưa ra do sự xáo trộn lớn về kinh tế và thị trường do sự lây lan nhanh chóng của virus COVID-19 và sự suy thoái kinh tế sau đó. Các hành động tiếp theo đã mở rộng vô thời hạn hành động QE này.
4. Hoạt động của giảm nhẹ định lượng:
Nới lỏng định lượng là một loại chính sách tiền tệ trong đó ngân hàng trung ương của một quốc gia cố gắng tăng tính thanh khoản trong hệ thống tài chính của mình, thường bằng cách mua trái phiếu chính phủ lâu năm từ các ngân hàng lớn nhất của quốc gia đó. Nới lỏng định lượng được Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) sử dụng vào năm 2001 nhưng sau đó đã được Hoa Kỳ và một số quốc gia khác áp dụng.16 Bằng cách mua các chứng khoán này từ các ngân hàng, ngân hàng trung ương hy vọng sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế bằng cách trao quyền cho các ngân hàng cho vay hoặc đầu tư tự do hơn.