Quy tắc xuất xứ là tiêu chí cần thiết để xác định nguồn gốc quốc gia của một sản phẩm. Tầm quan trọng của chúng xuất phát từ thực tế là thuế và các hạn chế trong một số trường hợp phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu. Vậy hàng hóa có xuất xứ là gì? Phương pháp, tiêu chí xác định xuất xứ.
Mục lục bài viết
1. Hàng hóa có xuất xứ là gì?
– Dưới góc độ khoa học luật thương mại quốc tế, quy tắc xuất xứ hàng hoá (Rules of Origin – RO) được hiểu là tập hợp các quy định pháp luật và quyết định hành chính để xác định quốc gia được coi là đã sản xuất ra hàng hoá (nước xuất xứ của hàng hoá). Hiện nay, do nhiều sản phẩm hàng hoá được sản xuất theo các công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn được thực hiện ở mỗi quốc gia khác nhau nhằm tận dụng các lợi thế liên quan của quốc gia đó (như nhân công, nguyên vật liệu, công nghệ…) nên trong nhiều trường hợp, các quốc gia và các khu vực nhập khẩu cần xác định được xuất xứ chính thức của loại hàng hoá nhập khẩu này.
– Có nhiều sự khác biệt trong thực hành của các chính phủ liên quan đến các quy tắc xuất xứ. Mặc dù yêu cầu chuyển đổi đáng kể được công nhận rộng rãi, nhưng một số chính phủ áp dụng tiêu chí chuyển đổi phân loại thuế quan, một số chính phủ khác áp dụng tiêu chí tỷ lệ phần trăm theo giá trị và một số chính phủ khác lại áp dụng tiêu chí về hoạt động sản xuất hoặc chế biến. Trong một thế giới toàn cầu hóa, điều quan trọng hơn là phải đạt được mức độ hài hòa trong thực tiễn của các Thành viên trong việc thực hiện các yêu cầu đó. Trên thực tế, pháp luật của các quốc gia và các liên kết kinh tế quốc tế hiện nay đều có các quy định về quy tắc xuất xứ hàng hoá áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu nhằm các mục đích:
– Xác định hàng hoá nhập khẩu thuộc diện được hưởng ưu đãi thương mại (như ưu đãi thuế quan, các biện pháp phi thuế quan…);
– Để thực thi các biện pháp hoặc công cụ thương mại, như thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, biện pháp tự vệ… (đối với hàng hoá có xuất xứ từ một số nước nhất định là đối tượng của các biện pháp và công cụ thương mại này);
– Để phục vụ công tác thống kê thương mại (như xác định lượng nhập khẩu và trị giá nhập khẩu từ từng nguồn khác nhau);
– Để phục vụ việc thực thi các quy định pháp luật về nhãn và ghi nhãn hàng hoá;
– Để phục vụ các hoạt động mua sắm của chính phủ theo quy định của pháp luật quốc gia đó và pháp luật quốc tế.
– (ASEAN Free Trade Area – AFTA) bắt đầu được hình thành từ năm 1993 với mục tiêu tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại hàng hoá nội khối thông qua việc dỡ bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan đối với thương mại hàng hoá nội khối và xây dựng, triển khai các hoạt động, chương trình thuận lợi hoá thương mại hàng hoá trong khu vực. Công cụ pháp lí chính để xây dựng và thực hiện AFTA là Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho AFTA (CEPT) kí ngày 28 tháng 1 năm 1992. Nội dung chính của CEPT là đưa ra chương trình cắt giảm thuế quan chung xuống mức 0% – 5% và loại bỏ các rào cản phi thuế quan đối với thương mại hàng hoá nội khối. Chương trình này được thực hiện trong thời hạn 10 năm, kể từ ngày 1/1/1993 đến 1/1/2003.
– Với mục tiêu xây dựng “một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung” của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) trên cơ sở sự tự do luân chuyển của 5 yếu tố cơ bản của sản xuất: hàng hoá, dịch vụ, vốn, đầu tư và lao động vào năm 2015, ngày 26/2/2009 các quốc gia ASEAN đã kí Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA – ASEAN Trade in Goods Agreement) tại Cha-am, Thái Lan.
– Hiệp định này được xây dựng trên cơ sở kế thừa và hợp nhất các quy định của các văn bản pháp lí trước đó về AFTA (tính đến trước khi kí ATIGA, ASEAN đã có tổng cộng 15 văn bản pháp lí quy định về AFTA, trong đó bao gồm cả Hiệp định CEPT/AFTA)(1) đồng thời bổ sung các nội dung mới nhằm điều chỉnh toàn diện và nâng cấp tất cả các lĩnh vực hợp tác về thương mại hàng hoá trong ASEAN cho phù hợp với yêu cầu xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN.
– Tương tự như các khu vực thương mại tự do FTAs khác trên thế giới, để xác định hàng hoá được hưởng ưu đãi thương mại trong AFTA(2) đồng thời nhằm tránh hiện tượng “chệch hướng thương mại – trade deflection”(3) quy tắc xuất xứ hàng hoá được xây dựng thành một trong các chế định pháp lí chính của AFTA. Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN năm 2009 đã dành riêng Chương 3 bao gồm các điều từ 25 đến 39 để quy định về quy tắc xuất xứ. Các quốc gia thành viên có thể áp dụng trực tiếp hoặc ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật quốc gia để thực hiện các quy định về quy tắc xuất xứ của ATIGA. Theo đó, ở Việt Nam Bộ công thương đã ban hành Thông tư số 21/2010/TT-BCT ngày 17/05/2010 về việc thực hiện Quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN.
2. Phương pháp, tiêu chí xác định xuất xứ:
– Theo Quy tắc xuất xứ của Khu vực thương mại tự do ASEAN, hàng hoá có xuất xứ ASEAN bao gồm hai loại: hàng hoá có xuất xứ thuần tuý hoặc được sản xuất toàn. Tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hoá (Change in Tariff Classification – CTC) Theo tiêu chí này, hàng hoá được coi là có xuất xứ ASEAN nếu “tất cả các nguyên vật liệu không có xuất xứ sử dụng để sản xuất ra hàng hoá đó đã trải qua quá trình chuyển đổi mã số hàng hoá (CTC) ở cấp 4 vực RVC (dùng để xác định tỉ lệ phần trăm giá trị khu vực so với tổng giá trị hàng hoá), tiêu chí này có tính kĩ thuật (về hải quan), được dùng để xác định xem liệu các nguyên vật liệu dùng để sản xuất ra hàng hoá (chứ không phải bản thân hàng hoá đó) không có xuất xứ đã được gia công, chế biến ở mức độ “đáng kể” tại quốc gia thành viên hay chưa.
– Về nguyên tắc chung, hoạt động gia công, chế biến được coi là “đáng kể” khi đã thay đổi thực chất tính chất hoặc đặc tính riêng của nguyên liệu đã sử dụng. Sự thay đổi đặc tính đó được xác định (một cách kĩ thuật) theo tiêu chí này là các nguyên vật liệu được sử dụng để sản xuất ra hàng hoá đã được chuyển đổi mã số hàng hoá trong hệ thống hài hoà.
– Hệ thống hài hoà mô tả và mã số hàng hoá thường được gọi tắt là hệ thống hài hoà hoặc hệ thống HS, là hệ thống tên gọi và mã số hàng hoá được tiêu chuẩn hoá quốc tế và dùng để phân loại hàng hoá. Tuỳ vào tên gọi, mô tả về tính chất, thành phần, cấu tạo, công dụng, quy cách đóng gói và các thuộc tính khác, mỗi loại hàng hoá sẽ được xác định và sắp xếp vào một mã số nhất định trong hệ thống hài hoà, trên cơ sở các quy tắc của hệ thống hài hoà đó.
– Trong mỗi hệ thống mã số và mô tả hàng hoá, thông thường, mã số ở cấp 2 số là mã hiệu của loại hàng (đồng thời là mã hiệu của các chương của hệ thống hài hoà), cấp 4 số là mã hiệu của nhóm hàng, 6 số là mã hiệu của phân nhóm hàng 6 số, 8 số là mã hiệu của phân nhóm hàng 8 số…
– Chuyển đổi mã số hàng hoá ở cấp 4 số (CTC) hay còn gọi là chuyển đổi nhóm hàng được thể hiện ở việc thành phẩm được sản xuất ra phải có mã số HS ở cấp 4 số khác với mã số HS (cũng ở cấp 4 số) của tất cả các nguyên liệu đầu vào (không có xuất xứ ASEAN) dùng để sản xuất ra sản phẩm đó. Hay nói cách khác, thành phẩm phải được xếp ở hạng mục cấp 4 số (nhóm hàng) khác với hạng mục của tất cả nguyên vật liệu nhập khẩu đã sử dụng, điều này có nghĩa là thành phẩm không nằm trong các nhóm hàng của các nguyên vật liệu nhập khẩu đã sử dụng.
– Hiện nay trên thế giới có nhiều hệ thống HS khác nhau, hệ thống HS được áp dụng trong AFTA là hệ thống trong Phụ lục của Công ước về hệ thống hài hoà mã số và mô tả hàng hoá, được thông qua và áp dụng ở các quốc gia thành viên theo luật pháp của đáng kể nguyên vật liệu không đáp ứng được tiêu chí CTC (trường hợp De Minimis) vẫn được coi là hàng hoá có xuất xứ ASEAN nếu phần trị giá của nguyên vật liệu không có xuất xứ sử dụng để sản xuất ra hàng hoá không đạt tiêu chí CTC nhỏ hơn hoặc bằng mười phần trăm (10%) trị giá FOB của hàng hoá đồng thời hàng hoá đó phải đáp ứng tất cả các quy định khác của Quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN đối với Việt Nam và nhiều nước ASEAN(11) nhưng do nó có nhiều ưu điểm nên đã được ASEAN đưa vào ATIGA 2009.
– Việc áp dụng tiêu chí này để xác định hàng hoá có xuất xứ ASEAN sẽ không bị lệ thuộc vào tỉ giá hối đoái, giá nguyên vật liệu, quy tắc kế toán… như khi áp dụng tiêu chí hàm lượng giá trị khu vực RVC, nó chỉ đơn giản là dựa vào sự thay đổi đáng kể(ở cấp 4 số) về mã số HS của sản phẩm so với mã số HS của nguyên vật liệu được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm đó đồng thời nó cũng tiện lợi cho việc lưu trữ hồ sơ.
3. Tiêu chí mặt hàng cụ thể:
Ngoài 2 tiêu chí chung được áp dụng cho tất cả các loại mặt hàng là tiêu chí hàm lượng giá trị khu vực RVC và tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hoá CTC, khoản 2 Điều 28 ATIGA 2009 còn quy định về quy tắc xuất xứ cụ thể cho một số mặt hàng nhất định. Những mặt hàng này được liệt kê tại Phụ lục 3 của ATIGA 2009 (Phụ lục về Danh mục các quy tắc xuất xứ mặt hàng cụ thể), kèm theo mỗi mặt hàng đó sẽ bao gồm quy tắc xuất xứ tương ứng riêng cho mỗi mặt hàng. Nếu hàng hoá đáp ứng được tiêu chí xuất xứ tương ứng quy định cho mặt hàng cụ thể đó sẽ được coi là có xuất xứ ASEAN, cho dù có đáp ứng hay không các tiêu chí RVC và CTC như đã trình bày ở trên.
– Các quy tắc xuất xứ cụ thể cho các loại hàng hoá này cũng được xây dựng dựa trên các yêu cầu đối với loại hàng hoá có xuất xứ thuần tuý hoặc được sản xuất toàn bộ; hoặc trên cơ sở yêu cầu về RVC, hoặc chuyển đổi mã số ở một cấp độ nào đó của hàng hoá, hoặc yêu cầu hàng hoá phải được gia công, chế biến một công đoạn nào đó tại quốc gia xuất khẩu (tiêu chí SP); hoặc kết hợp các tiêu chí nói trên. Tuy nhiên, yêu cầu RVC trong các quy tắc xuất xứ cụ thể của các mặt hàng này luôn bằng hoặc thấp hơn so với yêu cầu trong tiêu chí RVC chung (chẳng hạn chỉ yêu cầu RVC không dưới 35%).
– Yêu cầu chuyển đổi mã số hàng hoá có thể cao hơn hoặc thấp hơn CTC trong tiêu chí chung (tùy từng mặt hàng, tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hoá có thể đòi hỏi chuyển đổi ở cấp cho phép lựa chọn giữa các tiêu chí RVC, CTC, SP hoặc kết hợp giữa các tiêu chí nêu trên, mỗi nước thành viên phải cho phép nhà xuất khẩu hàng hoá quyết định lựa chọn sử dụng tiêu chí cụ thể trong các tiêu chí nói trên để xác định xuất xứ hàng hoá.
– Riêng đối với hàng dệt may, quy tắc xuất xứ được quy định tại danh mục đính kèm của Phụ lục 3. Theo danh mục đính kèm này, Quy tắc xuất xứ hàng dệt may được quy định theo tiêu chí SP (yêu cầu hàng hoá phải trải qua công đoạn gia công, chế biến nào đó tại nước xuất khẩu.
– Ngoài ra, hàng hoá được quy định trong Phụ lục A hoặc Phụ lục B của Tuyên bố cấp bộ trưởng về thương mại đối với sản phẩm công nghệ thông tin được phê chuẩn tại Hội nghị bộ trưởng của WTO vào ngày 13/12/ 1996, như quy định tại Phụ lục 4 của ATIGA (Phụ lục về Danh mục các sản phẩm công nghệ thông tin) sẽ được coi là có xuất xứ tại nước thành viên nếu hàng hoá đó được lắp ráp từ những nguyên vật liệu được ghi trong Phụ lục 4.
– Về mặt thủ tục, hàng hoá nếu đáp ứng được một trong ba tiêu chí như đã trình bày ở trên sẽ có xuất xứ ASEAN nhưng để được hưởng ưu đãi thuế quan trong AFTA, hàng hoá phải có giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN (mẫu D) và được “vận chuyển trực tiếp” từ lãnh thổ nước thành viên xuất khẩu sang lãnh thổ nước thành viên nhập khẩu. “Vận chuyển trực tiếp” được hiểu là:
– Hàng hoá được vận chuyển từ nước thành viên xuất khẩu tới nước thành viên nhập khẩu; hoặc
– Hàng hoá được vận chuyển qua một hoặc nhiều nước thành viên, ngoài nước thành viên nhập khẩu hoặc nước thành viên xuất khẩu, hoặc qua nước không phải là nước thành viên, với điều kiện:
+Quá cảnh là cần thiết vì lí do địa lí hoặc do các yêu cầu có liên quan trực tiếp đến vận tải;
+ Hàng hoá không tham gia vào giao dịch thương mại hoặc tiêu thụ tại nước quá cảnh đó; và
+ Hàng hoá không trải qua bất kì công đoạn nào khác ngoài việc dỡ hàng và bốc lại hàng hoặc những công đoạn cần thiết để giữ hàng hóa trong điều kiện tốt.