Sự ra đời và phát triển của tiền pháp định đã góp phần quan trọng và giúp đỡ, hỗ trợ rất nhiều cho chính phủ các quốc gia trong việc quản lý hệ thống tiền tệ và đã hỗ trợ gián tiếp cho người dân về nhiều mặt của đời sống xã hội. Vậy tiền pháp định là gì? Ưu và nhược điểm của tiền pháp định?
Mục lục bài viết
1. Tiền pháp định là gì?
Khái niệm tiền pháp định:
Tiền pháp định được hiểu cơ bản chính là tiền tệ được chính phủ của một quốc gia phát hành, quy định, công nhận hợp pháp. Giá trị của tiền pháp định bắt nguồn từ mối quan hệ giữa cung, cầu và sự ổn định của chính phủ phát hành, thay vì giá trị của một hàng hóa như trong hóa tệ.
Đa số hiện nay các loại tiền giấy hiện đại đều là tiền pháp định, trong đó bao gồm đồng đô la Mỹ, đồng euro và các loại tiền tệ lớn khác trên toàn cầu.
Tiền pháp định trong tiếng Anh là gì?
Tiền pháp định trong tiếng Anh là Fiat Money.
2. Các loại tiền pháp định:
Hiện nay, tiền pháp định tại mỗi quốc gia sẽ được quy định và phân loại riêng. Cụ thể tại một số nước như sau:
– Tiền pháp định tại Việt Nam: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chính là cơ quan duy nhất phát hành tiền pháp định, được dùng làm phương tiện thanh toán không hạn chế trên lãnh thổ Việt Nam. Tại Việt Nam hiện tiền giấy và tiền polymer sẽ được song song lưu hành.
– Tiền pháp định tại Mỹ: Tiền xu và tiền giấy (bao gồm tiền giấy của Cục dự trữ liên bang và giấy bạc lưu thông của Ngân hàng dự trữ liên bang và các ngân hàng quốc gia) là tiền pháp định đối với mọi nghĩa vụ nợ nần, các khoản đóng góp công cộng, thuế và phí.
– Tiền pháp định tại Vương quốc Anh: Tiền xu mệnh giá 1 Bảng và 2 Bảng được coi là tiền pháp định với số lượng không hạn chế trên khắp lãnh thổ. Tiền giấy cũng được lưu hành trên khắp đất nước.
– Tiền pháp định tại Thụy Sĩ: Đồng Franc Thụy Sĩ là loại tiền pháp định duy nhất. Theo đó, các khoản thanh toán bao gồm tối đa 100 đồng xu Thụy Sĩ được coi là tiền pháp định, còn giấy bạc ngân hàng là tiền pháp định với số lượng không hạn chế.
– Tiền pháp định khu vực Châu Âu (EU): Đồng xu và giấy bạc Euro là tiền pháp định ở hầu hết các quốc gia của khu vực Châu Âu từ ngày 1/1/2002.
3. Nguồn gốc của tiền pháp định:
Tiền pháp định đã xuất hiện ở Trung Quốc từ nhiều thế kỷ trước. Tỉnh Tứ Xuyên bắt đầu phát hành tiền pháp định cụ thể là vào thế kỷ 11. Ban đầu, tiền pháp định có thể được đổi lấy lụa, vàng và bạc. Khi Kublai Khan lên nắm quyền, ông đã thiết lập một hệ thống tiền giấy theo luật định vào thế kỷ 13.
Các chủ thể là những nhà sử học tin rằng số tiền này đã góp phần vào sự sụp đổ của Đế chế Mông Cổ do bán phá giá và siêu lạm phát. Đó là bởi vì sự suy tàn của đế chế này.
Tiền pháp định thực chất cũng được sử dụng ở châu Âu vào thế kỷ 17 và được chấp nhận ở Tây Ban Nha, Thụy Điển và Hà Lan. Hệ thống này không thành công ở Thụy Điển và cuối cùng chính phủ đã từ bỏ nó để sử dụng bản vị bạc.
Trong hai thế kỷ tiếp theo, New France của Canada, các thuộc địa của Mỹ và chính phủ liên bang Hoa Kỳ tiếp theo cũng đã thử nghiệm với các loại tiền pháp định và đã đưa ra kết quả rất khác nhau.
Trong thế kỷ 20, Hoa Kỳ quay trở lại việc sử dụng hạn chế tiền dựa trên hàng hóa. Năm 1933, chính phủ chấm dứt việc đổi tiền giấy sang vàng.
Năm 1972, dưới thời Tổng thống Nixon, Hoa Kỳ đã từ bỏ hoàn toàn căng thẳng chính về vàng, đặt sự sụp đổ của nó ở mức quốc tế và chuyển sang một hệ thống tiền pháp định. Điều này cũng đã dẫn đến việc sử dụng tiền pháp định trên toàn thế giới.
4. Tiền pháp định có thể được sử dụng ở đâu?
Hiện nay thì đồng tiền pháp định được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới và có thể được sử dụng để nhằm mục đích có thể mua hầu hết mọi loại hàng hóa và dịch vụ.
Tiền pháp định bao gồm tiền giấy, tiền xu, tín dụng, khoản vay hoặc trái phiếu. Nếu các chủ thể đăng ký thẻ tín dụng hoặc khoản vay cá nhân và được chấp thuận, các chủ thể đó sẽ đang sử dụng tiền trên cơ sở được đảm bảo và thỏa thuận.
Các chủ thể cũng có thể chuyển đổi tiền pháp định sang các loại tiền tệ khác khi đi nghỉ, đi du lịch hoặc gửi tiền trên khắp thế giới. Dịch vụ Chuyển tiền Quốc tế cho phép các chủ thể sẽ có thể trả phí để nhằm mục đích gửi tiền.
Giá trị của tiền pháp định:
Giá trị của tiền pháp định dựa trên tính dễ sử dụng của nó. Tiền sẵn có và có giá trị vì nó dựa trên mối quan hệ tin cậy giữa các chủ thể là những người phát hành, người sở hữu và người nhận sử dụng chúng.
Nếu niềm tin vào giá trị của đồng tiền bị mất đi thì cầu cũng mất đi, dẫn đến giá trị bị giảm sút. Niềm tin xuất phát từ niềm tin mà nhiều người trên thế giới tin rằng nó xứng đáng. Giá trị của tiền khác với các tài sản khác như kim loại quý và hàng hóa.
5. Hoạt động và ưu nhược điểm của tiền pháp định:
5.1. Tiền pháp định hoạt động như thế nào?
Tiền pháp định được sử dụng và nó chỉ có giá trị bởi vì chính phủ duy trì giá trị đó hoặc do hai bên trong giao dịch đồng ý về giá trị của nó.
Trong lịch sử, các chính phủ sẽ đúc tiền từ một loại hàng hóa vật chất có giá trị, ví dụ cụ thể như vàng hoặc bạc, hoặc in tiền giấy có thể được đổi lấy một lượng hàng hóa thông thường. Tiền pháp định không thể thay đổi hay quy đổi.
Bởi vì tiền pháp định không dựa vào dự trữ vật chất, chẳng hạn cụ thể như dự trữ vàng hoặc bạc quốc gia, nên nó có nguy cơ mất giá trị do lạm phát hoặc thậm chí trở nên vô giá trị trong trường hợp siêu lạm phát. Nếu mọi người mất niềm tin vào tiền tệ của một quốc gia, tiền sẽ không còn giữ được giá trị. Điều đó khác với tiền tệ bản vị vàng.
Ví dụ cụ thể như: Đồng tiền có giá trị nội tại bời vì nhu cầu vàng trong trang sức và trang trí cũng như sản xuất các thiết bị điện tử, máy tính và phương tiện hàng không vũ trụ.
5.2. Ưu và nhược điểm của tiền pháp định:
Tiền pháp định trong giai đoạn hiện nay đóng vai trò là một loại tiền tệ tốt nếu nó có thể xử lí các vai trò mà đơn vị tiền tệ của một quốc gia cần cụ thể như: lưu trữ giá trị, cung cấp một tài khoản số và tạo điều kiện trao đổi. Thu nhập từ việc phát hành tiền của tiền pháp định cũng rất lớn.
Tiền pháp định thực chất đã trở nên phổ biến từ thế kỉ XX một phần vì các chính phủ và ngân hàng trung ương đã tìm cách bảo vệ nền kinh tế của họ khỏi những tác động tồi tệ của sự bùng nổ tự nhiên và chu kì kinh doanh. Bởi vì tiền pháp định không phải là nguồn tài nguyên khan hiếm hay cố định như vàng, nên các ngân hàng trung ương có thể kiểm soát nguồn cung của nó. Điều này cho phép các chủ thể có thể quản lí các biến số kinh tế cụ thể như cung tín dụng, thanh khoản, lãi suất và vận tốc của tiền.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng thế chấp năm 2007 và cuộc khủng hoảng tài chính tiếp theo xảy ra trên thế giới cũng đã làm giảm niềm tin rằng các ngân hàng trung ương có thể ngăn chặn sự suy thoái bằng cách điều tiết lượng cung tiền. Ví dụ cụ thể như một loại tiền tệ gắn liền với vàng thông thường sẽ ổn định hơn tiền pháp định bởi vì thực chất thì nguồn cung vàng hạn chế. Thế nên có nhiều cơ hội hơn để từ đó có thể tạo ra bong bóng với một khoản tiền pháp định do nguồn cung không giới hạn.
Quốc gia châu Phi Zimbabwe chính là một ví dụ cụ thể về trường hợp xấu nhất vào đầu những năm 2000. Để nhằm mục đích có thể đối phó với các vấn đề kinh tế nghiêm trọng, ngân hàng trung ương của đất nước bắt đầu in tiền với tốc độ kinh ngạc. Điều đó trên thực tế cũng sẽ dẫn đến siêu lạm phát chạy từ 230 đến 500 tỷ phần trăm trong năm 2008. Giá cả tăng nhanh và các chủ thể là những người tiêu dùng buộc phải mang theo túi tiền chỉ để có thể mua mặt hàng những hàng hóa thiết yếu. Đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng đó chính là khi 1 nghìn tỷ đô la Zimbabwe trị giá khoảng 40 cent tiền Mỹ.