Nghĩa vụ trả nợ là nghĩa vụ bắt buộc đối với người vay, việc thực hiện nghĩa vụ này không chỉ dừng lại việc trả đầy đủ tiền vay gốc và các khoản lãi phát sinh cho bên vay mà nó bao gồm cả việc trả nợ đúng thời hạn quy định. Cùng tìm hiểu về thời gian ân hạn và thời gian trả nợ là gì? Đặc trưng của hai loại thời gian?
Mục lục bài viết
1. Thời gian ân hạn là gì?
Thời gian ân hạn là khoảng thời gian sau khi đến hạn thanh toán, nhưng trước khi phí trả chậm, lãi suất hoặc các khoản phạt khác bắt đầu được tích lũy. Thời gian ân hạn, thường được bao gồm trong các hợp đồng cho vay thế chấp và bảo hiểm.
Thời gian ân hạn cho phép người đi vay hoặc khách hàng bảo hiểm có thể trì hoãn việc thanh toán trong một khoảng thời gian ngắn sau ngày đến hạn. Trong thời gian này, không tính phí trả chậm, và việc chậm trễ không thể dẫn đến vỡ nợ hoặc hủy bỏ khoản vay hoặc hợp đồng.
Các hợp đồng khác nhau sẽ có thời gian ân hạn khác nhau; hợp đồng thuê nhà hàng tháng có thể có thời gian gia hạn là năm ngày, trong khi hợp đồng cho vay sinh viên có thời gian gia hạn là sáu tháng sau khi tốt nghiệp.
Thanh toán sau ngày đến hạn nhưng trong thời gian ân hạn không gây ra một vết đen được thêm vào báo cáo tín dụng của người vay.
Tuy nhiên, điều quan trọng là phải kiểm tra hợp đồng để biết các chi tiết cụ thể về thời gian ân hạn. Theo một số hợp đồng cho vay, không tính thêm lãi suất trong thời gian ân hạn, nhưng đa số cộng thêm lãi kép trong thời gian ân hạn.
Khi xác định thời gian ân hạn cho một khoản vay, điều quan trọng cần lưu ý là thẻ tín dụng không có thời gian ân hạn cho các khoản thanh toán tối thiểu hàng tháng. Tiền phạt trả chậm sẽ được cộng thêm ngay sau ngày đến hạn và tiền lãi tiếp tục được cộng dồn hàng ngày.
Tuy nhiên, thời gian ân hạn được sử dụng để mô tả một tình huống trong tín dụng tiêu dùng: Khoảng thời gian mà trước đó có thể tính lãi cho các giao dịch mua mới trên thẻ tín dụng được gọi là thời gian ân hạn. Thời gian gia hạn 21 ngày này nhằm bảo vệ người tiêu dùng không bị tính lãi khi mua hàng trước khi đến hạn thanh toán hàng tháng.
Ví dụ về Thời gian ân hạn: Nếu người tiêu dùng có một khoản thế chấp với ngày đến hạn thanh toán vào ngày 5 hàng tháng — và hợp đồng có quy định thời gian ân hạn năm ngày — thì khoản thanh toán có thể được nhận muộn nhất là vào ngày 10 của tháng mà người vay không phải chịu bất kỳ hình phạt nào. Đây là một ví dụ về thời gian ân hạn khoản vay trong khoản vay thế chấp.
Đáng chú ý, thời gian ân hạn này không nhất thiết áp dụng cho các khoản ứng trước tiền mặt hoặc chuyển số dư. Các điều khoản này được nêu chi tiết trong hợp đồng thẻ tín dụng.
2. Đặc trưng của thời gian ân hạn:
Thời gian ân hạn đôi khi được gọi là “thời gian tha thứ”, mặc dù đây là một cách gọi sai. Các nghĩa vụ nợ không được tha thứ trong thời gian ân hạn, chúng chỉ đơn giản là được hoãn lại trong một khoảng thời gian ngắn.
Không nên nhầm lẫn thời gian ân hạn với thời gian hoãn hoặc thời hạn tạm hoãn, là khoảng thời gian mà người cho vay cho phép người đi vay bỏ lỡ các khoản thanh toán do gặp khó khăn hoặc các lý do khác.
Thời gian ân hạn so với thời gian hoãn lại: Tương tự như thời gian ân hạn, hoãn lại là khoảng thời gian mà người đi vay không bắt buộc phải thanh toán khoản vay, thường là trong trường hợp khó khăn về tài chính. Không giống như thời gian ân hạn, việc trì hoãn thường không tự động; người đi vay thường phải yêu cầu hoặc nộp đơn xin hoãn và cung cấp tài liệu chứng minh lý do tại sao họ không thể thanh toán. Trong hầu hết các trường hợp, các khoản vay tiếp tục tích lũy lãi suất trong thời gian trì hoãn, vì vậy, khôn ngoan là bạn nên thực hiện bất kỳ khoản thanh toán nào mà bạn có thể trong những khoảng thời gian này.
Bất kỳ hợp đồng nào có thời gian ân hạn cũng sẽ bao gồm ngôn ngữ giải thích điều gì sẽ xảy ra nếu khoản thanh toán không được thực hiện vào cuối thời hạn đó. Các khoản phạt có thể bao gồm phí thanh toán chậm, lãi suất phạt tăng hoặc hủy bỏ hạn mức tín dụng. Trong trường hợp tài sản được cầm cố để thế chấp, việc thanh toán chậm nhiều lần có thể dẫn đến việc tổ chức cho vay thu giữ tài sản đó.
Thời gian ân cho Công việc là gì? Trong việc làm, thời gian ân hạn đề cập đến thời gian sau khi một ca làm việc mới bắt đầu, trong đó một nhân viên đi muộn sẽ không phải đối mặt với bất kỳ hình phạt nào. Thời gian ân hạn điển hình là bảy phút, vì hầu hết các đồng hồ thời gian đều làm tròn đến một phần tư giờ gần nhất.
Tổng kết lại thì chúng ta nhận thấy thời gian ân hạn cho phép người vay bỏ lỡ ngày đến hạn thanh toán mà không phải chịu thêm hình phạt. Một thời gian ân hạn hào phóng có thể là một cứu cánh cho những người hay vay nợ hoặc những người có hoàn cảnh khó khăn ngắn hạn. Tuy nhiên, thời gian gia hạn không phải là lý do để bỏ lỡ một khoản thanh toán. Điều quan trọng là phải đọc kỹ các điều khoản của bất kỳ hợp đồng nào để hiểu các nghĩa vụ và các lựa chọn thanh toán của bạn.
3. Thời gian trả nợ là gì?
Thời gian trả nợ được hiểu là khoảng thời gian người vay không được rút tiền nữa mà phải trả dần khoản vay. Thời gian này chấm dứt khi người vay trả hết nợ.
Thời gian trả nợ, hay còn gọi là “Thời hạn hoàn trả” là khoảng thời gian từ thời điểm bắt đầu cấp tín dụng đến ngày đáo hạn cuối cùng của một giao dịch. Điểm xuất phát của tín dụng nói chung là việc hoàn thành trách nhiệm của nhà xuất khẩu theo hợp đồng xuất khẩu (ví dụ: giao hàng hoặc hoàn thành dự án). Thời gian chấp nhận, lưu giữ và bảo hành không được tính khi xác định điểm bắt đầu. “Ngày đáo hạn cuối cùng” là ngày đến hạn của khoản thanh toán cuối cùng. Việc trả nợ bắt đầu sau khoảng sáu tháng kể từ thời điểm bắt đầu, và các khoản thanh toán gốc và lãi cộng dồn nói chung phải được thực hiện sáu tháng một lần.
Theo các điều khoản của một khoản vay, việc trả nợ có thể có các lịch trình và yêu cầu khác nhau. Ví dụ, một khoản vay có thể được phân bổ trong một khoảng thời gian cụ thể, yêu cầu phải trả nợ thường xuyên. Các khoản hoàn trả sẽ được chia thành lãi (tức là lãi trên số tiền còn nợ) và trả gốc (tức là số tiền còn lại của khoản thanh toán định kỳ được sử dụng để giảm số dư nợ). Đồng thời, thời hạn cho vay có thể được phân bổ trong một khoảng thời gian dài hơn so với ngày đến hạn của khoản vay. Trong trường hợp này, một khoản vay sẽ yêu cầu “hoàn trả trong bong bóng” (tức là số tiền gốc chưa được hoàn trả sẽ đến hạn thanh toán toàn bộ vào cuối kỳ hạn). Trong cả hai trường hợp, tất cả các khoản thanh toán cho khoản vay được gọi là khoản hoàn trả.
4. Đặc trưng của thời gian trả nợ:
Thời gian trả nợ có thể kết thúc ngay khi hết thời hạn vay, tức khi hết gì hạn, người vay trả toàn bộ số tiền đã vay.
Hoặc thời gian trả nợ có thể được chia thành nhiều giai đoạn trả nợ khác nhau, gọi là kì hạn trả nợ. Kì hạn này có thể là 1 tháng, 3 tháng, hoặc 6 tháng, tùy theo hợp đồng vay giữa các bên.
Ví dụ: giả sử rằng một giao dịch có thời hạn hoàn trả là 5 năm, trả góp nửa năm một lần và một lô hàng dự kiến thực hiện vào tháng 12 năm 2001. Việc trả nợ sẽ bắt đầu vào tháng 6 năm 2002 và bao gồm mười khoản tiền gốc trả góp nửa năm một lần bằng nhau (cộng với lãi suất cộng dồn). Khoản thanh toán cuối cùng sẽ đến hạn vào tháng 12 năm 2006.
Để tính số kỳ trả nợ cho một khoản vay, thì có thể lấy tổng số khoản tiền vay chia cho mức trả nợ từng kỳ.
Cần lưu ý rằng, thời gian trả nợ chỉ chấm dứt khi người vay thực hiện trả nợ toàn bộ khoản tiền gốc và khoản tiền lãi cho khoản vay. Nó không đồng nhất với thời hạn vay trong hợp đồng vay giữa các bên.
Nhiều khoản vay được hoàn trả bằng cách sử dụng một loạt các khoản thanh toán trong một khoảng thời gian. Các khoản thanh toán này thường bao gồm số tiền lãi được tính trên số dư chưa thanh toán của khoản vay cộng với một phần của số dư chưa thanh toán của khoản vay. Việc thanh toán một phần số dư chưa thanh toán của khoản vay này được gọi là khoản thanh toán gốc.
Nhìn chung, có hai loại lịch trình trả nợ – ngay cả thanh toán gốc và thậm chí cả tổng thanh toán. Với lịch thanh toán gốc chẵn, quy mô của khoản thanh toán gốc là như nhau cho mọi khoản thanh toán. Nó được tính bằng cách chia số tiền của khoản vay ban đầu cho số lần thanh toán. Tổng thanh toán chẵn: Tổng thanh toán chẵn bao gồm việc trả lãi giảm dần và trả gốc ngày càng tăng. Việc giảm quy mô của khoản trả lãi được kết hợp với việc tăng quy mô của khoản thanh toán gốc để quy mô của tổng số khoản thanh toán khoản vay không đổi trong suốt thời gian của khoản vay. Từ hai phương thức thanh toán này chúng ta có thể tính ra được số kỳ phải trả nợ, và tính được khoảng thời gian trả nợ.