Thị trường cân bằng là một trạng thái khá hiếm gặp trên thực tế nhưng không phải là không xảy ra. Và trong thị trường tiền tệ, cũng xuất hiện hiện tượng cân bằng thị trường như các thị trường khác mặc dù thị trường tiền tệ là thị trường có nhiều biến động và biến động không ngừng nghỉ. Vậy cân bằng thị trường tiền tệ là gì? Những thay đổi của trạng thái cân bằng?
Mục lục bài viết
1. Cân bằng thị trường tiền tệ là gì?
Thị trường tiền tệ là sự tương tác giữa các tổ chức mà thông qua đó tiền được cung cấp cho các cá nhân, công ty và các tổ chức khác có nhu cầu tiền.
Cân bằng thị trường tiền tệ xảy ra ở mức lãi suất tại đó lượng tiền cầu bằng lượng tiền cung ứng. Trong thị trường này, lượng cầu cũng trở nên bằng với lượng cung.
Chúng ta có thể hiểu nhu cầu về tiền như sau:
Khi quyết định nắm giữ bao nhiêu tiền, mọi người đưa ra lựa chọn về cách nắm giữ tài sản của họ. Bao nhiêu của cải sẽ được nắm giữ dưới dạng tiền và bao nhiêu là tài sản khác? Đối với một lượng tài sản nhất định, câu trả lời cho câu hỏi này sẽ phụ thuộc vào chi phí và lợi ích tương đối của việc giữ tiền so với các tài sản khác. Cầu tiền là mối quan hệ giữa số lượng tiền mà mọi người muốn nắm giữ và các yếu tố quyết định số lượng đó.
Để đơn giản hóa phân tích của chúng tôi, chúng tôi sẽ giả định rằng chỉ có hai cách để nắm giữ của cải: dưới dạng tiền trong tài khoản séc, hoặc tiền trong quỹ tương hỗ trên thị trường trái phiếu mua trái phiếu dài hạn thay mặt cho người đăng ký của nó. Một quỹ trái phiếu không phải là tiền. Một số khoản tiền gửi có lãi, nhưng lợi tức trên các tài khoản này nói chung thấp hơn so với những gì có thể thu được trong quỹ trái phiếu. Ưu điểm của tài khoản séc là chúng có tính thanh khoản cao và do đó có thể được chi tiêu dễ dàng. Chúng ta sẽ nghĩ về cầu tiền như một đường cong biểu thị kết quả của sự lựa chọn giữa tính thanh khoản cao hơn của tiền gửi và lãi suất cao hơn có thể kiếm được khi nắm giữ quỹ trái phiếu. Chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất thu được từ trái phiếu là chi phí giữ tiền.
Cung tiền là tổng số tiền — tiền mặt, tiền xu và số dư trong tài khoản ngân hàng — đang lưu thông.
Cung tiền là tất cả tiền tệ và các công cụ thanh khoản khác trong nền kinh tế của một quốc gia vào ngày được đo lường. Nguồn cung tiền gần như bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi có thể được sử dụng gần như dễ dàng như tiền mặt.
Các chính phủ phát hành tiền giấy và tiền xu thông qua một số sự kết hợp giữa các ngân hàng trung ương và kho bạc của họ. Các cơ quan quản lý ngân hàng ảnh hưởng đến nguồn cung tiền sẵn có cho công chúng thông qua các yêu cầu đặt ra đối với các ngân hàng về việc nắm giữ dự trữ, cách mở rộng tín dụng và các vấn đề tiền tệ khác.
.Các nhà kinh tế phân tích lượng cung tiền và xây dựng các chính sách xoay quanh nó thông qua việc kiểm soát lãi suất và tăng hoặc giảm lượng tiền luân chuyển trong nền kinh tế. Phân tích khu vực công và khu vực tư nhân được thực hiện do cung tiền có thể tác động đến mức giá, lạm phát và chu kỳ kinh doanh.
Các loại tiền khác nhau trong cung tiền thường được phân loại là Ms, chẳng hạn như M0, M1, M2 và M3, tùy theo loại và quy mô của tài khoản mà công cụ được lưu giữ. Không phải tất cả các cách phân loại đều được sử dụng rộng rãi và mỗi quốc gia có thể sử dụng các cách phân loại khác nhau. Lượng tiền cung ứng phản ánh các dạng thanh khoản khác nhau của mỗi loại tiền trong nền kinh tế. Nó được chia thành các loại khác nhau về tính thanh khoản hoặc khả năng chi tiêu.
Ví dụ, M1 còn được gọi là tiền hẹp và bao gồm tiền xu và tiền giấy đang lưu hành và các loại tiền tương đương khác có thể chuyển đổi dễ dàng thành tiền mặt. M2 bao gồm M1 và thêm vào đó là tiền gửi ngắn hạn có kỳ hạn trong ngân hàng và một số quỹ trên thị trường tiền tệ. M3 bao gồm M2 ngoài tiền gửi dài hạn.
2. Biểu thị cân bằng tiền tệ trên biểu đồ:
Trong biểu đồ, thì:
Cung tiền là đường biểu diễn mối quan hệ giữa lượng tiền cung ứng và lãi suất; bởi vì ngân hàng trung ương kiểm soát lượng tiền dự trữ, nó không thay đổi dựa trên lãi suất và đường cung tiền là thẳng đứng.
Cung tiền theo chiều dọc: Cung tiền cuối cùng được xác định bởi cơ sở tiền tệ và số nhân tiền. Ở hầu hết các quốc gia, ngân hàng trung ương của quốc gia đó xác định quy mô của cơ sở tiền tệ. Hãy nhớ rằng cơ sở tiền tệ bao gồm dự trữ trong kho tiền và tiền tệ lưu thông bên ngoài ngân hàng. Ví dụ, các ngân hàng trung ương có thể thay đổi các yêu cầu dự trữ để thay đổi cơ sở tiền tệ.
Cung tiền không phụ thuộc vào lãi suất, nó chỉ phụ thuộc vào ngân hàng trung ương. Do đó, đường cung tiền là thẳng đứng tại số lượng cung tiền, không dốc lên hoặc dốc xuống
Cầu tiền là đường biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cầu tiền và lãi suất; đường cầu tiền đang dốc xuống
Lãi suất danh nghĩa điều chỉnh cho đến khi thị trường tiền tệ ở trạng thái cân bằng
Trong bất kỳ thị trường nào, trạng thái cân bằng xảy ra khi lượng cung bằng lượng cầu. Giá điều chỉnh cho đến khi thị trường ở trạng thái cân bằng. Thị trường tiền tệ cũng không ngoại lệ. Sự khác biệt duy nhất giữa các thị trường khác và thị trường tiền tệ là:
– Giá là lãi suất danh nghĩa -đường cung thẳng đứng
Trên thị trường tiền tệ, lãi suất danh nghĩa điều chỉnh cho đến khi số lượng tiền mà mọi người muốn nắm giữ bằng với số lượng tiền tồn tại. Nếu lãi suất danh nghĩa trên mức cân bằng cao, người ta giảm lượng tiền mặt nắm giữ. Nếu lãi suất danh nghĩa dưới mức cân bằng, họ sẽ tăng lượng tiền mặt nắm giữ.
3. Những thay đổi của trạng thái cân bằng tiền tệ:
Thau đổi trạng thái cân bằng tiền tệ thì đó chính là sự thay đổi của yếu tố cung hoặc yếu tố cầu hoặc sự thay đổi của cả hai yếu tố trong thị trường tiền tệ. Ngân hàng trung ương kiểm soát cung tiền, vì vậy nó có thể thực hiện các hành động để tăng cung tiền và giảm cung tiền. Thay đổi trong cung tiền dẫn đến thay đổi trong lãi suất.
Nhưng còn nhu cầu về tiền bạc, liệu nó có thể thay đổi? Chắc chắn rồi! Có một số lý do khiến nhu cầu về tiền có thể thay đổi:
– Những thay đổi trong thu nhập quốc dân: khi GDP thực tế tăng lên, có nhiều hàng hóa và dịch vụ được mua hơn. Sẽ cần nhiều tiền hơn để mua chúng. Mặt khác, GDP thực tế giảm sẽ làm cho đường cầu tiền tệ giảm theo.
– Thay đổi mức giá (lạm phát hoặc giảm phát): nếu giá của mọi thứ tăng 20 %, bạn cần thêm tiền 20 % để mua đồ. Khi mức giá tăng lên thì lượng cầu tiền tệ tăng lên. Ngược lại, khi mức giá giảm thì cầu tiền giảm.
– Những thay đổi trong công nghệ tiền tệ: nhu cầu về tiền được thúc đẩy bởi động cơ giao dịch (chúng ta muốn có tiền để có thể mua mọi thứ). Khi công nghệ mới giúp chuyển đổi của cải thành tiền dễ dàng hơn, chúng ta sẽ ít giữ lại nó hơn.
4. Một vài trạng thái về sự thay đổi của trạng thái cân bằng tiền tệ:
Nhu cầu về tiền đang giảm xuống
Giả sử bạn sống trong một thế giới mà bạn chỉ có thể cất giữ tài sản của mình bằng trái phiếu hoặc tiền mặt và bạn có $ 1000 đô la Mỹ, 1000 đô la tiền mặt. Bạn có thể kiếm được lợi nhuận 10% (phần trăm) nếu bạn mua một trái phiếu, nhưng lợi tức để nắm giữ tài sản của bạn dưới dạng tiền bằng không. Trái phiếu đó nghe có vẻ khá hấp dẫn, vì vậy bạn dành toàn bộ số tiền của mình để mua trái phiếu.
Bây giờ bạn có một vấn đề nhỏ: tất cả của cải của bạn đều ở dạng trái phiếu và bạn đang không có tiền. Bạn mang trái phiếu đến cửa hàng bánh rán nhưng họ chỉ chấp nhận tiền mặt. Người chủ cửa hàng bánh rán muốn được thanh toán ngay bây giờ, không phải một năm kể từ bây giờ khi những trái phiếu đó đáo hạn!
Vì vậy, bạn có một sự lựa chọn: bán trái phiếu của bạn và ăn, hoặc giữ trái phiếu của bạn và kiếm lãi. Sự cân bằng giữa việc giữ cho tài sản của bạn có tính thanh khoản (dưới dạng tiền mặt) hoặc một số tài sản khác (trái phiếu) được gọi là ưu đãi thanh khoản. Số tiền bạn sẵn sàng nắm giữ dưới dạng tiền mặt sẽ phụ thuộc vào rất nhiều thứ, chẳng hạn như giá bánh rán, mức độ đói của bạn và mức độ dễ dàng di chuyển của cải giữa tiền mặt và trái phiếu.
Tùy chọn thanh khoản của bạn cũng sẽ phụ thuộc vào lãi suất. Nếu lãi suất đột ngột giảm xuống dưới 1 % thì việc nắm giữ các trái phiếu này không còn ý nghĩa như khi ở mức 10%. Mối quan hệ nghịch đảo này giữa ưu đãi thanh khoản và lãi suất có nghĩa là cầu tiền sẽ dốc xuống.
Biểu thị mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát và tổng sản lượng khi thị trường hàng hóa ở trạng thái cân bằng. Tăng lãi suất tại bất kỳ tỷ lệ lạm phát nhất định nào. Dịch chuyển đường cong MP xuống dưới.