Chính sách xã hội trong quản trị chiến lược được hiểu là trách nhiệm của công ty với người lao động, người tiêu dùng, các nhà vận động vì môi trường, các dân tộc thiểu số, cộng đồng, cổ đông và các nhóm khác. Liên hệ thực tễ?
Chính sách xã hội là một kế hoạch hoặc hành động của chính phủ hoặc các cơ quan thể chế nhằm cải thiện hoặc cải cách xã hội. Chính sách xã hội trong quản lý chiến lược có vai trò cũng như có những tác động vô cùng to lớn đối với chiến lược kinh doanh, phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia.
1. Chính sách xã hội trong quản trị chiến lược là gì?
– Chính sách xã hội trong quản trị chiến lược (Social policy) được hiểu là trách nhiệm của công ty với người lao động, người tiêu dùng, các nhà vận động vì môi trường, các dân tộc thiểu số, cộng đồng, cổ đông và các nhóm khác. Chính sách xã hội nhằm nâng cao phúc lợi con người và đáp ứng các nhu cầu của con người về giáo dục, y tế, nhà ở và an ninh kinh tế. Các lĩnh vực quan trọng của chính sách xã hội là an sinh và phúc lợi, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội , công bằng , bảo hiểm thất nghiệp , điều kiện sống , quyền động vật , lương hưu , chăm sóc sức khỏe , nhà ở xã hội , chính sách gia đình, chăm sóc xã hội , bảo vệ trẻ em , loại trừ xã hội , chính sách giáo dục , tội phạm và công lý hình sự, phát triển đô thị và các vấn đề lao động
– Chính sách xã hội quan tâm đến cách thức mà các xã hội trên toàn thế giới đáp ứng các nhu cầu của con người về an ninh, giáo dục, công việc, y tế và phúc lợi.
– Chính sách xã hội là nghiên cứu về phúc lợi xã hội, bảo trợ xã hội và các dịch vụ xã hội. Nhà ở rất quan trọng đối với phúc lợi, theo nghĩa riêng của nó và là điều kiện cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu khác. Mặc dù sự hiểu biết về phân phối nhà ở đã bị chi phối bởi phân tích kinh tế, nhưng nhà ở thường được phân phối ngoài thị trường. Theo truyền thống, nhà ở được coi là một dịch vụ xã hội, không chỉ với ý nghĩa cung cấp bảo trợ xã hội cho những người có hoàn cảnh phụ thuộc mà còn rộng hơn nhiều như một tập hợp các quy định thể chế, nơi đáp ứng nhu cầu được chấp nhận như một phần bình thường của xã hội. đời sống. Các vấn đề trọng tâm của việc phân phối bao gồm các câu hỏi về tiếp cận, tước đoạt và nhắm mục tiêu. Quan tâm đến bình đẳng đã là một nguyên tắc quan trọng chỉ đạo chính sách nhà ở.
– Với tư cách là một chủ đề học thuật, chính sách xã hội đã trở nên nổi bật trong các trường đại học ở Anh sau Chiến tranh thế giới thứ hai khi sự mở rộng nhanh chóng của các dịch vụ công quan trọng đã thúc đẩy sự quan tâm đến ‘nhà nước phúc lợi’ mới nổi. Trong những ngày đầu tiên, chủ đề chủ yếu quan tâm đến cái mà William Beveridge, kiến trúc sư trưởng của nhà nước phúc lợi của Anh, đã gọi là ‘năm người khổng lồ’. Theo thuật ngữ hiện đại, những người khổng lồ này là nghèo đói, sức khỏe kém, nhà ở tồi tàn, giáo dục không đầy đủ và thất nghiệp . Đối với Beveridge, giải quyết những tệ nạn xã hội này là một phần thiết yếu của công cuộc tái thiết sau Chiến tranh. Việc triển khai các dịch vụ để giải quyết những tệ nạn xã hội này đã đánh dấu một sự thay đổi rõ rệt trong quyền công dân xã hội và việc một nhóm học giả mới sẽ chuyển sự chú ý của họ sang khía cạnh quan trọng này của chính sách chính phủ là điều đương nhiên.
2. Liên hệ thực tiễn:
– Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ sau Chiến tranh, các nhà phân tích chính sách xã hội bắt đầu xác định những lỗ hổng trong nhà nước phúc lợi Beveridgean. Một số người nhấn mạnh sự dai dẳng của tình trạng nghèo đói giữa nhiều nơi. Những người khác chỉ ra những kẻ phân biệt giới tính và phân biệt chủng tộc khổng lồ ‘ẩn giấu’ mà nhà nước phúc lợi đã không giải quyết được. Những lời chỉ trích này không chỉ phản ánh mối quan tâm đến những điểm yếu của chính sách của chính phủ mà còn mở rộng trọng tâm của chủ đề học thuật về chính sách xã hội, bắt đầu thu hút rộng rãi hơn nhiều ý tưởng từ xã hội học và khoa học chính trị và chấp nhận một quan điểm phê phán hơn về trạng thái phúc lợi.
– Một số chuyên gia và trường đại học coi chính sách xã hội là một tập hợp con của chính sách công , trong khi các nhà hành nghề khác mô tả chính sách xã hội và chính sách công là hai cách tiếp cận riêng biệt, cạnh tranh vì cùng một lợi ích công (tương tự như MD và DO trong chăm sóc sức khỏe), với chính sách xã hội được coi là tổng thể hơn chính sách công. Bất kể trường đại học tuân theo thuyết phục nào trong số những thuyết phục này, chính sách xã hội bắt đầu bằng việc nghiên cứu trạng thái phúc lợi và các dịch vụ xã hội . Nó bao gồm các hướng dẫn , nguyên tắc , luật pháp và các hoạt động liên quan ảnh hưởng đến điều kiện sống có lợi cho phúc lợi con người , chẳng hạn như chất lượng cuộc sống của một người .
– Chính sách xã hội đề cập đến những nỗ lực của chính phủ và cơ quan lập pháp nhằm thực hiện những thay đổi nhằm mang lại lợi ích cho xã hội hoặc một bộ phận xã hội cụ thể và theo nghĩa này, là một sự can thiệp xã hội. Có nhiều ảnh hưởng đến mức độ xâm lược và bạo lực trong phạm vi toàn xã hội, tùy thuộc vào quốc gia và nền văn hóa. Ví dụ, việc sử dụng nhục hình trong việc nuôi dạy trẻ và kỷ luật học đường, bạo lực trên các phương tiện truyền thông (truyền hình và phim ảnh), và các hoạt động xã hội cho phép hoặc tạo điều kiện cho bạo lực (ví dụ: sử dụng súng cầm tay) ảnh hưởng đến hành vi hung hăng và chống đối xã hội của trẻ.
– Đã có nhiều chương trình quy mô lớn đầy hứa hẹn để hạn chế ảnh hưởng đến các vấn đề về hạnh kiểm của trẻ em. Ví dụ, việc sử dụng hình phạt thể xác (tức là hành vi xâm hại thân thể đối với trẻ em) góp phần vào sự hung hăng của trẻ em. Hình phạt thân thể trong kỷ luật trẻ em ở nhà và ở trường đã bị cấm ở một số quốc gia (ví dụ: Áo, Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy và Thụy Điển) (Greven 1992). Một ví dụ khác, một nỗ lực quy mô lớn đã được thực hiện ở Na Uy nhằm hạn chế tình trạng bắt nạt ở trẻ em. Phụ huynh, giáo viên và đồng nghiệp đã tham gia vào một nỗ lực quốc gia có hiệu quả trong việc thay đổi đặc tính tương tác giữa các thanh niên. Tại Hoa Kỳ, các chương trình giáo dục mầm non (Head Start) được thiết kế để cải thiện sự phát triển của trẻ trong các gia đình có hoàn cảnh khó khăn và có tác động rộng rãi đến hoạt động của trẻ. Nhìn chung, các can thiệp chính sách xã hội khó thực hiện và khó đánh giá hơn điều trị và phòng ngừa. Thực tiễn chính sách thường chịu sự thay đổi của luật, thường tốn kém và cần có các thủ tục giám sát đặc biệt để đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả (Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ 1993 ).
– Ở phương Tây hiện đại, những người ủng hộ kế hoạch xã hội khoa học như nhà xã hội học Auguste Comte và các nhà nghiên cứu xã hội, chẳng hạn như Charles Booth , đã góp phần vào sự xuất hiện của hoạch định chính sách xã hội ở các nước công nghiệp phát triển đầu tiên sau Cách mạng Công nghiệp . Các cuộc khảo sát về tình trạng nghèo đói cho thấy những điều kiện tàn bạo trong các khu ổ chuột đô thị ở Anh thời Victoria đã tạo ra áp lực dẫn đến những thay đổi như sự suy giảm và bãi bỏ của hệ thống luật nghèo và các cải cách phúc lợi tự do. Các ví dụ quan trọng khác trong sự phát triển của chính sách xã hội là nhà nước phúc lợi Bismarckian ở Đức thế kỷ 19 , các chính sách an sinh xã hội ở Hoa Kỳ được đưa ra theo bảng đánh giá của Thỏa thuận mới từ năm 1933 đến năm 1935, và cả Báo cáo Beveridge và Đạo luật Dịch vụ Y tế Quốc gia Năm 1946 tại Anh. Do đó, hai mô hình bảo hiểm xã hội chính đã nảy sinh trong thực tế: phúc lợi Bismarkian từ Đức và phúc lợi Beveridgean từ Anh.
Chính sách xã hội trong thế kỷ 21 rất phức tạp và ở mỗi tiểu bang, nó phải chịu sự chi phối của các chính quyền địa phương và quốc gia , cũng như ảnh hưởng chính trị siêu quốc gia . Ví dụ, tư cách thành viên của Liên minh Châu Âu có điều kiện là các quốc gia thành viên phải tuân thủ Chương Xã hội của luật Liên minh Châu Âu và các luật quốc tế khác .