Hợp đồng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán được hiểu là văn bản ghi nhận sự thỏa thuận của các bên, theo đó một bên là bên tư vấn và bên còn lại là bên được tư vấn. Các điều khoản chủ yếu?
Hiện nay, thị trường chứng khoán diễn ra rất phổ biến, số lượng người tham gia, đầu tư chứng khoán ngày càng tăng cao. Khi tham gia đầu tư chứng khoán, khách hàng và công ty chứng khoán cần phải lập thành hợp đồng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán.
Mục lục bài viết
1. Hợp đồng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán chứng khoán là gì?
Hợp đồng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán (Securities investment advisory agreement) được hiểu là văn bản ghi nhận sự thỏa thuận của các bên, theo đó một bên là bên tư vấn (công ty chứng khoán) và bên còn lại là bên được tư vấn (nhà đầu tư/ khách hàng). Về bản chất, thỏa thuận tư vấn đầu tư phác thảo mối quan hệ pháp lý giữa cố vấn tài chính và khách hàng.
– Có hai loại thỏa thuận tư vấn: tùy ý và không tùy ý. Các thỏa thuận tùy ý cho phép cố vấn tài chính thay mặt khách hàng đưa ra quyết định. Các thỏa thuận không tùy nghi yêu cầu khách hàng phải chấp thuận các quyết định trước khi đưa ra các quyết định đó. Khách hàng có thể phải ký một thỏa thuận tư vấn đầu tư mới nếu các quy định thay đổi. Các cố vấn có nghĩa vụ pháp lý theo thỏa thuận này để phục vụ nhu cầu của khách hàng. Khách hàng có thể yêu cầu cố vấn phải chịu trách nhiệm nếu người đó vi phạm các điều khoản của thỏa thuận. Cố vấn không được hưởng lợi từ các khoản phí liên quan đến kết quả hoạt động của họ. Các thỏa thuận tư vấn đầu tư cần được xem xét kỹ lưỡng trước khi ký kết.
– Nguồn Tư vấn Đầu tư – thuê một cố vấn đầu tư để tìm hiểu về sức khỏe tài chính và các mục tyêu tài chính của mình, sau đó tùy chỉnh một chiến lược đầu tư phù hợp với nhu cầu và mong muốn cụ thể của bạn. Việc cố vấn cung cấp cho bạn lời khuyên hoặc dịch vụ không được tùy chỉnh chính xác cho bạn là vi phạm pháp luật. Về cơ bản, các cố vấn không thể đưa ra tất cả các lời khuyên đầu tư phù hợp với một quy mô mà không có sự cho phép của nhà đầu tư. Các thỏa thuận tư vấn đầu tư bắt buộc phải có điều khoản nghiêm cấm loại tư vấn này một cách rõ ràng.
– Lương thưởng dựa trên Hiệu suất – Công việc của một cố vấn đầu tư là tìm kiếm lợi ích của bạn, không phải lợi ích của cố vấn hoặc công ty. Các thỏa thuận tư vấn đầu tư dựa trên việc thực hiện các khoản đầu tư là vi phạm pháp luật đối với các thỏa thuận tư vấn đầu tư. Điều này giúp bảo vệ các nhà đầu tư trung bình như bạn khỏi bị áp lực phải thực hiện các khoản đầu tư rủi ro cao.
– Các điều khoản phòng hộ trong thỏa thuận tư vấn đầu tư – Trong tất cả trừ một số trường hợp rất hạn chế, các thỏa thuận tư vấn đầu tư không được chứa các điều khoản phòng hộ. Các điều khoản này về cơ bản miễn cho cố vấn khỏi bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào, ngay cả khi họ vi phạm trực tyếp các quy định tài chính. Bạn có quyền buộc cố vấn của mình phải chịu trách nhiệm nếu họ hành động thiếu thận trọng với tyền của bạn. Nếu bạn gặp phải các thỏa thuận tư vấn đầu tư có chứa các điều khoản phòng ngừa rủi ro, hãy nhớ đánh giá cẩn thận chúng trước khi ký kết.
– Để đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư có thể lựa chọn nhiều phương thức khác nhau. Một trong những phương thức phổ biến thường được các nhà đầu tư nhỏ hoặc nhà đầu tư không chuyên nghiệp đánh giá cao là tham gia vào quỹ đầu tư chứng khoán. Thông qua việc đầu tư của quỹ, nhà đầu tư sẽ được sở hữu một phần tài sản trong danh mục đầu tư đa dạng do quỹ nắm giữ (theo tỉ lệ vốn đầu tư vào quỹ), điều mà các nhà đầu tư đơn lẻ khó thực hiện được. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư không chuyên cũng thấy an toàn hơn do quỹ đầu tư chứng khoán được quản lý bởi những nhà quản trị và kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp.
– Theo cách phân loại phổ biến hiện nay, quỹ đầu tư chứng khoán có hai loại: Quỹ đầu tư không có tư cách chủ thể (còn gọi là quỹ đầu tư dạng hợp đồng) và quỹ đầu tư có tư cách chủ thể (còn gọi là quỹ đầu tư dạng công ty). Theo quy định của Luật chứng khoán năm 2006, quỹ đầu tư không có tư cách chủ thể gọi là quỹ đầu tư chứng khoán còn quỹ đầu tư có tư cách chủ thể gọi là công ty đầu tư chứng khoán. Mô hình đầu tư này lần đầu tiên được quy định trong pháp luật Việt Nam, do đó vẫn còn nhiều vấn đề pháp lí cần phải được làm sáng tỏ thêm.
– Đối với những quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển, công ty đầu tư chứng khoán luôn được ghi nhận là một dạng quỹ đầu tư chứng khoán. Luật về công ty đầu tư năm 1940 của Mĩ ghi nhận: Tất cả các loại quỹ đầu tư chứng khoán đều được gọi chung là công ty đầu tư chứng khoán (Investment Company) và gồm nhiều loại khác nhau. Ở Anh, quỹ đầu tư dưới dạng công ty gọi là Investment Trust Company(1) (tạm dịch: Công ty đầu tư chứng khoán uỷ thác). Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về công ty đầu tư chứng khoán như sau: Công ty đầu tư chứng khoán là một dạng quỹ đầu tư chứng khoán, được thành lập dưới hình thức công ty để tyến hành hoạt động đầu tư chứng khoán theo quy định của pháp luật.
Để phân biệt với quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của pháp luật Việt Nam, công ty đầu tư chứng khoán có những đặc điểm sau đây:
– Thứ nhất, công ty đầu tư chứng khoán là mô hình đầu tư kết hợp giữa quỹ đầu tư chứng khoán không có tư cách chủ thể với công ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán.
Với mô hình công ty đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư có khả năng quản lí hoàn toàn hoạt động của công ty. Như vậy, công ty đầu tư chứng khoán đồng thời có thể thu hút được các nhà đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp tham gia, giúp đỡ lẫn nhau. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp (ví dụ như ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính v.v.) giúp các nhà đầu tư không chuyên về hoạt động quản lí và đầu tư sao cho có hiệu quả còn các nhà đầu tư không chuyên làm gia tăng nguồn vốn kinh doanh của công ty. Mô hình này cho phép công ty đầu tư chứng khoán không nhất thiết phải có chủ thể quản lí độc lập (công ty quản lí quỹ) như quỹ đầu tư chứng khoán.
– Thứ hai, công ty đầu tư chứng khoán do chính những nhà đầu tư thành lập.
Đặc điểm này giúp phân biệt công ty đầu tư chứng khoán với quỹ đầu tư chứng khoán. Theo quy định của Luật chứng khoán năm 2006, quỹ đầu tư chứng khoán do công ty quản lí quỹ thành lập. Cùng với quá trình thành lập, công ty quản lí quỹ sẽ lựa chọn mô hình quỹ, ngân hàng giám sát, soạn thảo điều lệ quỹ v.v.. Như vậy, so với công ty đầu tư chứng khoán, khi tham gia vào quỹ đầu tư chứng khoán, tính chủ động của các nhà đầu tư bị hạn chế nhiều hơn.
– Thứ ba, hoạt động đầu tư của công ty đầu tư chứng khoán vừa giống với quỹ đầu tư chứng khoán, lại vừa giống với hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán.
– Công ty đầu tư chứng khoán cũng như công ty chứng khoán, đều nhân danh mình để đầu tư chứng khoán bằng tài sản của chính công ty, trong khi đó quỹ đầu tư chứng khoán không có tư cách chủ thể lại đầu tư chứng khoán bằng danh nghĩa của công ty quản lí quỹ.
– Tuy nhiên, công ty đầu tư chứng khoán phải chịu nhiều sự hạn chế đầu tư hơn so với công ty chứng khoán. Công ty đầu tư chứng khoán phải có một tỉ lệ vốn đầu tư vào chứng khoán tối thiểu theo quy định của pháp luật. Pháp luật coi khả năng huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán tương tự như việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng, do đó, công ty đầu tư chứng khoán phải chịu những hạn chế đầu tư tương tự như quỹ đại chúng.
– Thứ tư, công ty đầu tư chứng khoán là một pháp nhân, được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần.
Là pháp nhân kinh doanh, công ty đầu tư, chứng khoán có lợi thế hơn các quỹ đầu tư ở chỗ, nó có thể thực hiện việc vay vốn để đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, pháp luật cần có những giới hạn để đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư tham gia. Theo pháp luật Mĩ, tỉ lệ vốn vay của công ty đầu tư chứng khoán không được vượt quá 33,33% so với vốn tự có phần cho phép các nhà đầu tư nhỏ dễ dàng tham gia góp vốn cũng như rút vốn khỏi công ty đầu tư chứng khoán bằng cách chuyển nhượng cổ phần cho chủ thể khác. Xét dưới khía cạnh quản lí, hình thức công ty cổ phần giúp họ hạn chế được nhiều rủi ro hơn, do cơ chế quản lí của công ty cổ phần ưu việt hơn các mô hình công ty khác trong việc kiểm soát vốn đầu tư, từ đó gián tiếp góp phần đảm bảo sự phát triển lành mạnh cho thị trường chứng khoán.
2. Các điều khoản chủ yếu:
– Cũng như như hợp đồng khác, hợp đồng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán cũng cần phải đảm bảo được những điều khoản cơ bản, hoặc các điều khoản bổ sung (nếu có). Theo đó:
– Thứ nhất, điều khoản về đối tượng hợp đồng: về bản chất, đây là loại hợp đồng dịch vụ nên điều khoản về đối tượng của hợp đồng cần phải nêu rõ về công việc cụ thể, theo đó công việc này phải do bên cung cấp dịch vụ thực hiện theo yêu cầu của bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ và bên cung cấp sẽ được nhận thù lao( cụ thể, công việc của bên cung cấp dịch vụ : phân tích chứng khoán, đưa ra kết quả, báo cáo phân tích và các khuyến nghị cụ thể đối với nhà đầu tư)
– Thứ hai, điều khoản về giá cả của dịch vụ: đây có thể coi là điều khoản quan trọng và không thể thiếu trong hợp đồng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, theo đó, điều khoản về giá cả của hợp đồng xác định rõ về số tiền cụ thể mà bên sử dụng dịch vụ phải trả cho bên cung cấp dịch vụ. Về giá cả của hợp đồng sẽ do các bên tự thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng.
– Thứ ba, điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên: các bên khi tham gia vào hợp đồng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán thì các bên đều thực hiện quyền, nghĩa vụ và những điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên phải được nêu rõ ràng, cụ thể trong hợp đồng. Các quyền và nghĩa vụ này sẽ do các bên tự thỏa thuận tuy nhiên không được trái với những quy định của pháp luật, đạo đức, thuần phong mỹ tục.