Delta là tỉ số so sánh sự thay đổi giá của một tài sản, thông thường sẽ là chứng khoán được bán trên thị trường, với sự thay đổi của giá trị quyền chọn tương ứng với sự thay đổi của giá trị tài sản cơ sở. Tìm hiểu về mức suy giảm Delta?
Mức suy giảm Delta được hiểu cơ bản là tốc độ thay đổi tức thì của một quyền chọn hay một chứng quyền theo thời gian. Thuật ngữ mức suy giảm Delta cũng được sử dụng khá phổ biến trong thực tiễn và có những vai trò và ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn. Tuy nhiên, chắc hẳn vẫn còn nhiều người chưa biết đến thuật ngữ này.
Mục lục bài viết
1. Tìm hiểu về Delta:
Khái niệm Delta:
Delta được hiểu cơ bản là tỉ số so sánh sự thay đổi giá của một tài sản, thông thường sẽ là chứng khoán được bán trên thị trường, với sự thay đổi của giá trị quyền chọn tương ứng với sự thay đổi của giá trị tài sản cơ sở. Ví dụ cụ thể như: nếu quyền chọn cổ phiếu có giá trị Delta là 0,65, nghĩa là nếu cổ phiếu cơ sở tăng lên với giá là 1 đô la mỗi cổ phiếu, thì quyền chọn lên nó sẽ tăng 0,65 đô la mỗi cổ phiếu, trong điều kiện các điều kiện khác đều như nhau.
Nội dung về Delta:
Giá trị Delta cũng có thể dương hoặc âm tùy thuộc vào loại quyền chọn cụ thể. Ví dụ cụ thể như: Delta sẽ là một số giữa 0,0 và 1,0 với bên bán quyền chọn mua (và bên mua quyền chọn bán) và 0,0 và -1,0 với bên bán quyền chọn bán (và bên mua quyền chọn mua).
Tùy thuộc vào giá trị tài sản cơ sở, giá trị quyền chọn mua có thể thay đổi như cổ phiếu cơ sở (trong trường hợp giá thực hiện thấp hơn nhiều so với giá trị thị trường) hoặc hoàn toàn không đổi (trong trường hợp giá thực hiện cao hơn nhiều so với giá trị thị trường), hoặc ở mức giữa. Điều này cũng đi ngược lại với một quyền chọn bán.
Chênh lệch giữa Delta của quyền chọn mua và Delta của quyền chọn bán có cùng giá thực hiện gần bằng nhưng không bằng 1 mà nó sẽ bằng nghịch đảo của hệ số chiết khấu. Theo nguyên tắc cân bằng mua bán, mua quyền chọn mua và bán quyền chọn bán cũng sẽ tương đương với việc mua sản phẩm tương lai F, thường biến động song song với giá tài sản cơ sở hiện tại S, với hệ số bằng nghịch đảo của hệ số chiết khấu là dF/dS.
Những con số này thông thường sẽ được trình bày dưới dạng phần trăm của tổng số cổ phần tương đương với các hợp đồng quyền chọn, bởi vì các hợp đồng quyền chọn cũng sẽ ngay lập tức có giá trị giống như số lượng cổ phiếu được thể hiện bởi Delta.
Ví dụ cụ thể như sau:
Nếu danh mục 100 quyền chọn mua cổ phiếu XYZ mỗi quyền có Delta 0,25 (= 25%), thì danh mục sẽ tăng hoặc mất giá trị giống như 2.500 cổ phiếu XYZ khi giá cổ phiếu biến động nhỏ (100 hợp đồng quyền chọn tương đương 10.000 cổ phiếu).
Dấu và tỉ lệ phần trăm thường bị loại bỏ – dấu được hiểu ngầm theo loại quyền chọn (âm cho quyền chọn bán, dương cho quyền chọn mua) và tỉ lệ phần trăm được hiểu ngầm. Các quote (báo giá) phổ biến nhất là 25 Delta quyền chọn bán, 50 Delta quyền chọn bán / 50 Delta quyền chọn mua và 25 Delta quyền chọn mua.
50 Delta quyền chọn mua và 50 Delta quyền chọn bán không hoàn toàn giống nhau, do giá hiện tại và giá hợp đồng tương lai khác nhau bởi hệ số chiết khấu, nhưng chúng thường tịnh tiến.
Delta luôn dương với quyền chọn mua và luôn âm với quyền chọn bán (trừ khi Delta bằng 0). Delta tổng của một danh mục đầu tư với nhiều quyền chọn mua/bán trên cùng một tài sản cơ sở được tính đơn giản bằng tổng Delta của mỗi quyền chọn mua/bán – Delta của danh mục đầu tư bằng tổng của các Delta thành phần.
Bởi vì Delta của tài sản cơ sở luôn bằng 1, các chủ thể là các nhà đầu tư có thể bảo hiểm toàn bộ danh mục của mình bằng việc mua hoặc mượn số cổ phiếu bằng đúng số thể hiện bởi Delta. Ví dụ cụ thể, nếu Delta của danh mục quyền với cổ phiếu XYZ (thể hiện theo số cổ phiếu tài sản cơ sở) là +2,75, các chủ thể là những nhà đầu tư có thể bảo hiểm biến động giá của danh mục bằng cách mượn 2,75 cổ phần XYZ.
Danh mục đầu tư này sẽ giữ nguyên giá bất kể giá cổ phần XYZ biến động theo hướng nào (mặc dù chỉ cho các biến động nhỏ về giá, cho một khoảng thời gian ngắn và không tính tới các thay đổi khác về thị trường như mức độ biến động và lãi suất phi rủi ro).
2. Tìm hiểu về mức suy giảm Delta:
Khái niệm mức suy giảm Delta:
Charm, hay còn gọi là mức suy giảm Delta, đuợc hiểu cơ bản là tốc độ thay đổi tức thì của một quyền chọn hay một chứng quyền theo thời gian. Mức suy giảm Delta cũng chính là đạo hàm bậc hai của giá trị của quyền chọn, một lần đạo hàm là theo thời gian và một lần là theo Delta. Nó cũng là đạo hàm của theta, được sử dụng nhằm để có thể đo lường sự hao mòn thời gian của giá trị quyền chọn. Theta (Hao mòn thời gian) được hiểu là thước đo tỉ lệ suy giảm giá trị của hợp đồng quyền chọn theo thời gian. Theta tăng lên nhanh chóng khi ngày đáo hạn của quyền chọn đến gần bởi vì càng có ít thời gian được sử dụng để nhằm mục đích thu lợi nhuận từ giao dịch hơn.
Cách thức hoạt động của mức suy giảm Delta:
Mức suy giảm Delta sẽ cho biết giá trị Delta của quyền chọn thay đổi bao nhiêu mỗi ngày cho đến khi quyền chọn đến ngày đáo hạn. Delta của quyền chọn là sự thay đổi về giá trị (phí quyền chọn) do sự thay đổi giá của tài sản cơ bản. Chính bởi vì thế, một quyền chọn có Delta là +50 sẽ thu được 50 xu giá trị cho mỗi đô la mà giá của tài sản cơ bản tăng lên. Tuy nhiên, giá trị Delta không tĩnh.
Chẳng hạn, Gamma đo lường sự thay đổi Delta của một quyền chọn khi giá cơ bản thay đổi, vì vậy nếu một quyền chọn ban đầu có giá trị Delta là +0,50 thì tài sản cơ sở tăng lên 1 đô la, nếu nó có gamma là 10, thì giá trị Delta mới là +0,40. Delta cũng thay đổi (hao mòn) khi thời gian trôi qua trong tất cả các giá trị khác đều bằng nhau. Đó là cách mà mức suy giảm Delta hoạt động.
Giá trị của mức suy giảm Delta nằm trong khoảng từ -1.0 đến +1.0. Các quyền chọn mua ở trạng thái lời (ITM) và quyền chọn bán ở trạng thái lỗ (OTM) có các giá trị mức suy giảm Delta dương, ngược lại, các quyền chọn bán ở trạng thái lời và quyền chọn mua ở trạng thái lỗ có Charm âm. Các quyền chọn tại trạng thái hòa vốn thì đạt giá trị mức suy giảm Delta bằng 0, nhưng Delta hao mòn về 0 hoặc 100 tăng tốc cho các quyền chọn không phải là tiền khi đáo hạn.
Mức suy giảm Delta được sử dụng bởi các chủ thể là những nhà giao dịch quyền chọn, các chủ thể này đã sử dụng các quyền chọn để nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro do thị trường đóng cửa vào hai ngày cuối tuần nên sức ảnh hưởng của giá trị mức suy giảm Delta là rất lớn. Khi thị trường đóng cửa vào thứ Ba lúc 5 giờ chiều (giờ ET) và mở lại vào thứ Tư lúc 8 giờ sáng (thời gian giao dịch của Sàn giao dịch chứng khoán New York), giá trị mức suy giảm Delta chỉ có nửa ngày có hiệu lực.
Khi thị trường đóng cửa vào thứ Sáu lúc 5 giờ chiều và thị trường đó lại mở cửa trở lại vào thứ Hai lúc 8 giờ sáng thì đã có hai ngày rưỡi trôi qua mà không có giao dịch chứng khoán cơ bản nào. Các chủ thể là các nhà giao dịch quyền chọn, đặc biệt là những người đang đứng ở vị thế được bảo vệ bởi giá trị Delta sẽ cần phải thực sự chú ý đến giá trị mức suy giảm Delta của họ vào thứ Sáu bởi vì nó có ảnh hưởng đến hành vi quyền chọn của các chủ thể đó vào ngày thứ Hai tuần sau.
Quyền chọn được hiểu cơ bản là một dạng hợp đồng chứng khoán phái sinh và nó được sử dụng nhằm mục đích để cho phép các chủ thể là người nắm giữ nó có quyền mua hoặc bán một khối lượng hàng hóa cơ sở nhất định với một mức giá xác định vào một thời điểm cụ thể đã được định trước. Có hai loại quyền chọn cơ bản cụ thể đó là: quyền chọn mua (call option) và quyền chọn bán (put option). Các hàng hóa cơ sở này có thể là những loại cơ bản sau đây: cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, tiền hay hợp đồng tương lai.
– Quyền chọn mua (Call option) được định nghĩa như sau: một quyền chọn mua cho chủ thể là người mua sở hữu quyền được mua một loại tài sản cơ sở ở một mức giá cố định (gọi là giá thực hiện) trong một khoản thời gian xác định. Đổi lại, các chủ thể là những người mua quyền phải trả ngay cho người bán quyền một khoản tiền gọi là phí quyền chọn, người bán quyền có nghĩa vụ phải bán tài sản khi người mua thực hiện quyền (nghĩa là mua tài sản).
– Quyền chọn bán được định nghĩa như sau: một quyền chọn bán cho người mua sở hữu quyền được bán tài sản cơ sở tại một giá cố định cho người bán quyền chọn bán. Đổi lại, người mua quyền phải trả cho người bán một khoản phí. Người bán quyền sẽ có nghĩa vụ phải trả cho người bán một khoản phí nhất định. Các chủ thể là những người bán quyền có nghĩa vụ phải mua tài sản khi người mua thực hiện quyền (nghĩa là bán tài sản).