Tỉ trọng tổn thất ước tính của một tổ chức tài chính được tính toán sau khi xem xét tất cả các khoản nợ chưa thanh toán bằng cách sử dụng các khoản lỗ và rủi ro tích lũy. Tính toán tỉ trọng tổn thất ước tính?
Tỉ trọng tổn thất ước tính (LGD) là khoản tiền mà ngân hàng hoặc tổ chức tài chính khác bị mất khi người đi vay không trả được nợ, được mô tả dưới dạng tỷ lệ phần trăm trên tổng số tiền nợ tại thời điểm không trả được nợ.
1. Tỉ trọng tổn thất ước tính là gì?
– Khái niệm Tỉ trọng tổn thất ước tính (LGD):
Tổng Tỉ trọng tổn thất ước tính LGD của một tổ chức tài chính được tính toán sau khi xem xét tất cả các khoản nợ chưa thanh toán bằng cách sử dụng các khoản lỗ và rủi ro tích lũy.
– Các cách hiểu chính về Tỉ trọng tổn thất ước tính:
Tỉ trọng tổn thất ước tính (LGD) là một phép tính quan trọng đối với các tổ chức tài chính dự kiến tổn thất dự kiến của họ do người đi vay không trả được nợ.
Tổn thất dự kiến của một khoản vay nhất định được tính bằng LGD nhân với cả xác suất vỡ nợ và rủi ro vỡ nợ.
Mức rủi ro mặc định là tổng giá trị của khoản vay tại thời điểm người đi vay không trả được nợ.
Một con số quan trọng đối với bất kỳ tổ chức tài chính nào là số lỗ dự kiến tích lũy trên tất cả các khoản vay chưa thanh toán.
Tỉ trọng tổn thất ước tính LGD là một thành phần thiết yếu của Mô hình Basel (Basel II), một tập hợp các quy định ngân hàng quốc tế.
Các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác xác định tổn thất tín dụng bằng cách phân tích các khoản nợ thực tế không trả được. Việc định lượng tổn thất có thể phức tạp và yêu cầu phân tích một số biến số. Một nhà phân tích tính đến các biến số này khi xem xét tất cả các khoản vay do ngân hàng phát hành để xác định LGD. Cách hạch toán các khoản lỗ tín dụng trên báo cáo tài chính của một công ty bao gồm việc xác định cả khoản dự phòng rủi ro tín dụng và khoản dự phòng cho các tài khoản khó đòi.
Ví dụ: hãy xem xét rằng Ngân hàng A cho Công ty XYZ vay 2 triệu đô la và công ty này không trả được nợ. Khoản lỗ của Ngân hàng A không nhất thiết phải là 2 triệu đô la. Các yếu tố khác phải được xem xét, chẳng hạn như số tài sản mà ngân hàng có thể giữ làm tài sản thế chấp, liệu khoản thanh toán trả góp đã được thực hiện để giảm số dư chưa và liệu ngân hàng có sử dụng hệ thống tòa án để hoàn trả từ Công ty XYZ hay không. Với những yếu tố này và các yếu tố khác đã được xem xét, trên thực tế, Ngân hàng A có thể chịu một khoản lỗ nhỏ hơn nhiều so với khoản vay 2 triệu đô la ban đầu.
Xác định số lượng tổn thất là một tham số quan trọng và khá phổ biến trong hầu hết các mô hình rủi ro. LGD là một thành phần thiết yếu của Mô hình Basel (Basel II), một tập hợp các quy định ngân hàng quốc tế, vì nó được sử dụng để tính toán vốn kinh tế, tổn thất dự kiến và vốn điều tiết. Khoản lỗ dự kiến được tính bằng LGD của khoản vay nhân với cả xác suất vỡ nợ (PD) và khả năng mất khả năng trả nợ của tổ chức tài chính (EAD).
2. Tính toán tỉ trọng tổn thất ước tính:
Cách tính Tỉ trọng tổn thất ước tính (LGD):
Mặc dù có một số cách để tính LGD, nhưng cách tính được nhiều nhà phân tích và kế toán ưa thích nhất là cách tính gộp. Lý do của điều này phần lớn là do công thức đơn giản, không tính đến giá trị tài sản đảm bảo cho khoản vay.
Các khoản cho vay có tài sản đảm bảo, được gọi là nợ có bảo đảm, mang lại lợi ích lớn cho người cho vay và có thể mang lại lợi ích cho người đi vay thông qua lãi suất thấp hơn.
Tính toán này của LGD so sánh số đô la của khoản lỗ tiềm năng hoặc thực tế với tổng số tiền nợ tại thời điểm một khoản vay bị vỡ nợ. Phương pháp này cũng phổ biến nhất, bởi vì các nhà phân tích học thuật thường chỉ có quyền truy cập vào dữ liệu thị trường trái phiếu, có nghĩa là giá trị của tài sản thế chấp là không có sẵn, không xác định hoặc không quan trọng.
Tỉ trọng tổn thất ước tính (LGD) so với phơi sáng ở chế độ mặc định (EAD)
Nợ không trả được là tổng giá trị khoản vay mà ngân hàng phải chịu khi người đi vay không trả được nợ. Ví dụ, nếu một người đi vay vay 100.000 đô la và hai năm sau số tiền còn lại trên khoản vay là 75.000 đô la, và người đi vay không trả được nợ, khoản nợ không trả được là 75.000 đô la.
Khi phân tích rủi ro vỡ nợ, các ngân hàng thường sẽ tính toán EAD trên một khoản vay, vì nó nhằm mục đích dự đoán số tiền ngân hàng sẽ phải chịu khi người đi vay không trả được nợ. Mức rủi ro mặc định (EAD) liên tục thay đổi khi người vay thanh toán khoản vay của họ.
Tùy thuộc vào khoản vay, chẳng hạn như khoản vay thế chấp hoặc khoản vay dành cho sinh viên, có một số ngày khác nhau trôi qua mà không có khoản thanh toán được coi là một khoản vỡ nợ. Đảm bảo rằng bạn biết con số cho khoản vay cụ thể của mình.
– Sự khác biệt chính giữa LGD và EAD là LGD xem xét bất kỳ khôi phục nào trên mặc định. Ví dụ: nếu một người đi vay không trả được khoản vay mua ô tô còn lại của họ, thì EAD là số tiền còn lại của khoản vay mà họ không trả được. Bây giờ, nếu một ngân hàng sau đó có thể bán chiếc xe đó và thu hồi một lượng EAD nhất định, thì điều đó sẽ được xem xét để tính toán LGD.
Ví dụ về Tỉ trọng tổn thất ước tính (LGD)
Hãy tưởng tượng một người đi vay vay 400.000 đô la cho một căn hộ. Sau khi trả góp khoản vay trong một vài năm, người vay gặp khó khăn về tài chính và vỡ nợ khi khoản vay có số dư chưa thanh toán, hoặc khoản nợ bị vỡ nợ là 300.000 đô la. Ngân hàng tịch thu căn hộ và có thể bán nó với giá 240.000 đô la. Khoản lỗ ròng cho ngân hàng là 60.000 đô la (300.000 – 240.000 đô la) và LGD là 20% (300.000 – 240.000 đô la) / 300.000 đô la).
Trong trường hợp này, tổn thất dự kiến sẽ được tính theo phương trình sau: LGD (20%) X xác suất phơi nhiễm mặc định (100%) X ở mức lỗi (300.000 đô la) = 60.000 đô la. Nếu tổ chức tài chính dự kiến một khoản lỗ tiềm năng nhưng không chắc chắn, thì khoản lỗ dự kiến sẽ khác. Sử dụng các số liệu tương tự từ kịch bản ở trên, nhưng giả sử chỉ có 50% xác suất vỡ nợ, phương trình tính toán tổn thất dự kiến là LGD (20%) X xác suất vỡ nợ (50%) X phơi nhiễm mặc định (300.000 đô la) = 30.000 đô la.
– Những vấn đề thường gặp về Tỉ trọng tổn thất ước tính (LGD):
+ Tỉ trọng tổn thất ước tính (LGD) là số tiền mà một tổ chức tài chính bị mất khi một người đi vay không trả được nợ, sau khi xem xét bất kỳ khoản thu hồi nào, được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm trên tổng số rủi ro tại thời điểm tổn thất.
+ PD và LGD là gì: Tỉ trọng tổn thất ước tính (LGD) là khoản lỗ do mặc định và đề cập đến số tiền mà ngân hàng bị mất khi người đi vay không trả được nợ. PD là xác suất vỡ nợ, đo xác suất hoặc khả năng người đi vay sẽ vỡ nợ đối với khoản vay của họ.
+ Sự khác biệt giữa EAD và LGD là gì: EAD là rủi ro không trả được nợ và đại diện cho giá trị khoản vay mà ngân hàng có nguy cơ bị mất tại thời điểm người đi vay không trả được nợ. Khoản lỗ mặc định là giá trị của một khoản vay mà ngân hàng có nguy cơ bị mất, sau khi thu được từ việc bán tài sản, được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm trên tổng số nợ.
+ Có thể mất mát cho mặc định là bằng không?
Khoản lỗ cho trước mặc định về mặt lý thuyết có thể bằng 0 khi một tổ chức tài chính đang lập mô hình LGD. Nếu mô hình tin rằng có thể thu hồi toàn bộ khoản vay thì LGD có thể bằng không. Tuy nhiên, điều này thường không xảy ra.
+ Sử dụng mặc định được hiểu như sau: Mặc định sử dụng là một thuật ngữ khác để chỉ khoản nợ mặc định, là tổng giá trị còn lại trên một khoản vay khi người đi vay không trả được nợ.
+ Điểm mấu chốt về Tỉ trọng tổn thất ước tính: Khi cho vay, các ngân hàng có xu hướng giảm thiểu rủi ro càng nhiều càng tốt. Họ đánh giá một người đi vay và xác định các yếu tố rủi ro khi cho người đi vay đó vay, bao gồm xác suất họ không trả được nợ và số tiền ngân hàng sẽ mất nếu họ không trả được nợ. Tổn thất mặc định cho trước (LGD), xác suất vỡ nợ (PD), và rủi ro vỡ nợ (EAD) là những phép tính giúp các ngân hàng định lượng tổn thất tiềm năng của họ.