Chỉ số xanh trong doanh nghiệp là gì? Vai trò chỉ số xanh? tác động của chỉ số xanh?
Hiện nay, khi xã hội ngày càng trở nên phát triển thì việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia hay mỗi địa phương thì đều trú trọng đến việc bảo vệ môi trường. Do đó, khi có nhiều doanh nghiệp được thành lập và phát triển thì việc đưa ra cái nhìn chính xác và khách quan về những bước phát triển xanh là điều rất cần thiết.
Mục lục bài viết
1. Chỉ số xanh trong doanh nghiệp là gì?
Chỉ số xanh trong tiếng Anh được gọi là Green Index.
Chỉ số xanh được nhận định là việc đưa ra một cái nhìn chính xác và khách quan về những bước phát triển xanh của các doanh nghiệp trong một nền kinh tế.
Ý tưởng về Chỉ số xanh xuất hiện từ một quan sát: trong lĩnh vực tài chính vi mô, vẫn chưa có gì rõ ràng, sự hiểu biết về “hoạt động môi trường trong tài chính vi mô” nghĩa là gì và không có công cụ nào được chấp nhận phổ biến để đánh giá hoạt động môi trường của các tổ chức tài chính vi mô (TCVM).Do đó, Nhóm Hành động Tài chính Vi mô và Môi trường e-MFP đã quyết định phát triển một công cụ thiết thực để đánh giá hoạt động môi trường của tổ chức tài chính vi mô. Các mục tiêu của một công cụ như vậy là:
-Thúc đẩy phản ánh về trách nhiệm môi trường và cách tiếp cận ba điểm mấu chốt trong tài chính vi mô;
-Thúc đẩy việc tích hợp các chỉ số xanh trong các công cụ đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính vi mô;
– Có cách tiếp cận sư phạm bằng cách tiết lộ các chiến lược môi trường chính mà tổ chức TCVM có thể áp dụng và thực hiện.
Được lập bởi Nhóm hành động tài chính vi mô và môi trường e-MFP dưới sự điều phối của các đồng trưởng Nhóm: Marion Allet (PAMIGA), Geert Jan Schuite (ENCLUDE), Davide Forcella (CERMi) và Raluca Dumitrescu (MicroEnergy International), tháng 10 năm 2016. Đây là ấn phẩm thứ hai của Nhóm Hành động về Chỉ số Xanh và đánh dấu lần đánh giá đầu tiên về công cụ (Chỉ số Xanh 2.0).
Chỉ số Xanh được tạo ra vào năm 2014 như một công cụ sáng tạo để đánh giá hoạt động môi trường của các tổ chức tài chính vi mô. Việc phát triển một công cụ như vậy có mục tiêu thúc đẩy phản ánh về trách nhiệm môi trường và phương pháp tiếp cận ba điểm mấu chốt trong tài chính vi mô; thúc đẩy việc tích hợp các chỉ số xanh trong các công cụ đánh giá hoạt động tài chính vi mô (như các công cụ quản lý hiệu quả hoạt động xã hội); và có một cách tiếp cận sư phạm bằng cách tiết lộ các chiến lược môi trường chính có thể được áp dụng và thực hiện bởi một tổ chức TCVM. Chỉ số Xanh 2.0 mô tả quá trình cập nhật và nêu chi tiết các tiêu chuẩn, thực hành và chỉ số thiết yếu được bao gồm trong SPI 4 như một mô-đun tùy chọn.
Chỉ số Xanh là kết quả của công việc hợp tác giữa các tổ chức và cá nhân khác nhau tham gia vào. Nhóm hành động tài chính vi mô và môi trường e-MFP. Các thành viên của Nhóm hành động bắt đầu với việc biên soạn một danh sách các thực hành môi trường có thể được thực hiện bởi. Các tổ chức TCVM, dựa trên công việc nghiên cứu hiện có1 và các công cụ của các nhà thực hành.
Sau đó, một cuộc khảo sát ngắn đã được thực hiện để xác định các thực hành tài chính vi mô xanh được người hành nghề tài chính vi mô đánh giá là phù hợp nhất. Các bản khảo sát đã được đệ trình cho các thành viên của Nhóm hành động vì môi trường và tài chính vi mô điện tử MFP, cho các thành viên của. Nhóm Công tác về Hiệu suất Xanh của SPTF và một số người hành nghề “tài chính vi mô xanh” được chọn bên ngoài hai các nhóm. Tổng số 36 câu trả lời đã được thu thập.
Trên cơ sở kết quả khảo sát, Nhóm hành động đã đưa ra các khuyến nghị về các chỉ số chính để đánh giá hoạt động môi trường của các tổ chức TCVM. Đặc biệt, các thành viên trong nhóm đã hợp tác chặt chẽ với CERISE để phát triển một. Chỉ số hài hòa với phân loại đã được sử dụng trong bộ công cụ Chương trình hoạt động xanh HIVOS3 (nội bộ rủi ro, rủi ro bên ngoài, cơ hội xanh) và điều đó phù hợp với tư duy của Tiêu chuẩn chung và công cụ SPI. Điều này cho phép đưa Chỉ số Xanh vào phiên bản mới của công cụ Chỉ báo Hiệu suất Xã hội (SPI4), công cụ đánh giá hiệu quả hoạt động xã hội được biết đến trên toàn thế giới do CERISE phát triển. Người dùng SPI4 bây giờ có cơ hội để lấp đầy trong Chỉ số Xanh như một mô-đun đánh giá tùy chọn (“Thứ nguyên XANH”).
2. Vai trò chỉ số xanh:
Tgheo như những gì tác giả tìm hiểu và nhận thức về chỉ số xanh thì chỉ số này được biết đến với những vai trò tương đối quan trọng như sau:
– Thứ nhất, việc các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sử dụng chỉ số xanh sẽ giúp các nhà đầu tư biết được các ngành nghề nào đang được cải thiện. Đồng thời thì khi các doanh nghiệp đang làm gì để đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, những tác động đối với hoạt động (tài chính) của doanh nghiệp là gì. Ngoài ra, chỉ số xanh đem lại lợi ích từ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp “going green – phát triển theo hướng xanh”, đánh giá tác động đối với môi trường Việt Nam như điều kiện sống và làm việc, thực phẩm, nước và không khí…
– Thứ hai, chỉ số sanh đem đến một vai trò rất lớn khi một quốc gia có các doanh nghiệp áp dụng thực hiện các chỉ số xanh theo như quy định. Và trong thời gian tới Việt Nam có thể trở thành nước đầu tiên tại khu vực Đông Dương có chỉ số xanh nếu như được xây dựng và công bố trong thời gian tới.
– Thứ ba, chỉ số xanh được xác định là đem lại nhiều lợi ích vượt ra ngoài ngành quản lí tài sản. Bên cạnh đó, chỉ số xanh đối với các nhà hoạch định chính sách, chỉ số xanh là công cụ marketing cho những chính sách mong muốn, hỗ trợ việc thực hiện chính sách.
– Thứ tư, chỉ số xanh được xác định có vai trò rất quan trọng đối với các Sở Giao dịch. Mà ở đây thì chỉ số xanh được xác định đó chính là một kho dữ liệu bổ sung, là báo cáo đánh giá sâu rộng, là các chỉ số và sản phẩm mới, các sản phẩm đầu tư hiện đại.
3. Tác động của chỉ số xanh:
Việt Nam cần đưa ra thêm xác danh mục và cần xác định các yêu cầu đối với nhà đầu tư xanh để xây dựng và phát triển các chỉ số tương ứng. Các bước xây dựng chỉ số xanh ban đầu có thể tác động nhiều hơn bản thân chỉ số. Chỉ số Xanh nhằm mục đích cung cấp một bức tranh đầy đủ về sự tham gia vào môi trường của một tổ chức TCVM, xét trên phạm vi rộng các chiến lược khả thi. Nó đã được xây dựng theo 3 chiều:
– Kích thước đầu tiên liên quan đến chiến lược môi trường chính thức của tổ chức TCVM, và bao gồm các chỉ số nhưcó chính sách môi trường chính thức, chỉ định một người để quản lý các vấn đề môi trường hoặc báo cáo về hiệu suất môi trường.
– Kích thước thứ hai liên quan đến quản lý rủi ro môi trường. Các tổ chức TCVM có thể xem xét rủi ro nội bộ của họ (nội bộ dấu chân sinh thái), và ví dụ xác định các cơ chế để giảm tiêu thụ giấy, nước và năng lượng tại cấp văn phòng của họ. Họ cũng có thể xem xét các rủi ro bên ngoài của họ (rủi ro môi trường của các hoạt động mà họ tài trợ),và quyết định sử dụng danh sách loại trừ, điều kiện tiếp cận khoản vay tiếp theo để giảm thiểu môi trường rủi ro hoặc nâng cao nhận thức của khách hàng về các giải pháp giảm thiểu.
– Kích thước thứ ba tập trung vào cách các tổ chức TCVM có thể thúc đẩy các cơ hội xanh, bằng cách cung cấp các dịch vụ tài chính hoặc phi tài chính cụ thể để thúc đẩy các doanh nghiệp thân thiện với môi trường (chẳng hạn như hoạt động tái chế), các hoạt động (như nông lâm nghiệp), hoặc công nghệ (bếp nấu cải tiến hoặc các giải pháp quang điện mặt trời).
Phù hợp với cách tiếp cận Quản lý hiệu suất xã hội, phiên bản đầu tiên của Chỉ số xanh này đang đo lường các quy trình và như vậy, cung cấp một cái nhìn tổng quan về các phương tiện mà tổ chức TCVM sử dụng để đạt được các mục tiêu môi trường của mình. Không nên đồng hóa công cụ với phép đo tác động. Hơn nữa, công cụ này không có nghĩa là có bất kỳ giá trị quy chuẩn nào. Các tổ chức TCVM không phải thực hiện tất cả các chiến lược được liệt kê trong chỉ mục.
Thay vào đó, mỗi tổ chức nên ưu tiên các mục tiêu riêng tùy theo bối cảnh, khách hàng mục tiêu, tầm nhìn / sứ mệnh và nguồn nhân lực, tài chính và kỹ thuật sẵn có. Do đó, Chỉ số Xanh nên được sử dụng như một công cụ hỗ trợ để đánh giá tình hình hiện tại, đặt ra các mục tiêu để cải thiện hoạt động môi trường và theo dõi tiến triển. Chỉ số Xanh cũng nên được coi là một công cụ động có nghĩa là được cải thiện sau phản hồi từ người dùng và để phát triển cùng với ngành tài chính vi mô.