Thuế xanh là loại thuế do chính phủ áp dụng đối với các nguồn gây ô nhiễm hoặc phát thải carbon. Vai trò của thuế xanh? Ví dụ thuế xanh trên thế giới?
Hiện nay, khi đời sống của con người ngày càng cao thì kèm theo đó là những nhu cầu của con người đối với cuộc sống ngày một tăng lên. Đồng thời do tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới phát triển rất nhanh những lại không chú trọng đến việc phát triển các ngành trong kinh tế sẽ làm cho môi trường bị ô nhiễm. Nhất là những ngành công nghiệp sản xuất ra lượng khí cacbon rất lơn và rất nguy hại đến môi trường những lại không có phương pháp giải quyết chiệt để. Chính vì vậy mà để giảm thiểu loại khí này thải ra ngoài môi trường thì các quốc gia đã áp dụng một loại thế đối với khí cacbon này đó chính là thuế xanh.
Mục lục bài viết
1. Thuế xanh là gì?
Thuế xanh là loại thuế do chính phủ áp dụng đối với các nguồn gây ô nhiễm hoặc phát thải carbon. Thuế xanh nhằm mục đích không khuyến khích sử dụng các nguồn năng lượng kém hiệu quả và khuyến khích thực hiện các giải pháp thay thế thân thiện với môi trường. Thuật ngữ này được sử dụng phổ biến nhất liên quan đến thuế đánh vào các phương tiện sử dụng nhiên liệu kém hiệu quả.
Thuế xanh là loại thuế do chính phủ thực thi đối với các nguồn gây ô nhiễm và khí thải carbon. Mục tiêu dự kiến của thuế xanh là hạn chế ô nhiễm và khí thải, đồng thời thúc đẩy các tập đoàn và cá nhân sử dụng năng lượng tái tạo hoặc cắt giảm lượng khí thải carbon của họ. Thị trường tư bản không ảnh hưởng đến các chi phí tiêu cực đối với môi trường, do đó, các khoản thu phí xanh được thiết lập để tạo ra mối quan hệ giữa các tập đoàn và cá nhân và môi trường của họ.
Một trong những loại thuế xanh phổ biến nhất là thuế carbon, thuế này đánh thuế các doanh nghiệp hoặc công dân bằng cách tính một khoản phí liên quan đến lượng khí thải carbon của họ. Những người chống lại việc đánh thuế phẳng cho rằng chúng gây tổn hại cho những người có thu nhập thấp hơn khi họ tăng giá xe cộ, xăng dầu và hệ thống sưởi trong nhà, chiếm một phần lớn thu nhập của họ. Các nhà phê bình cũng cho rằng thuế xanh cho phép những người giàu có thể thoát khỏi bất kỳ trách nhiệm nào trong khi làm được rất ít để giảm ô nhiễm và đồng thời gây tổn thương cho những người kém may mắn.
Đã có một số bất đồng về việc liệu các loại thuế này khi được thực hiện sẽ là lũy tiến hay lũy thoái. Mặc dù không có ý định như vậy, nhưng thuế đánh vào tiêu dùng có thể vô tình làm tổn thương những người nghèo, những người cuối cùng tiết kiệm ít thu nhập của họ và tiêu dùng nhiều hơn. Theo một nghiên cứu của Tổ chức Joseph Rowntree và Viện Nghiên cứu Chính sách.
Một số người chỉ trích thuế xanh cho rằng họ đánh thuế lén lút gây tổn hại cho người tiêu dùng bằng cách đẩy giá xe lên cao nhưng không giúp hạn chế được lượng khí thải. Các nhà phê bình cho rằng những khoản thuế này cho phép các công ty và người giàu mua chuộc khỏi những ảnh hưởng từ hoạt động của họ trong khi người nghèo, những người bị ảnh hưởng xấu hơn bởi biến đổi khí hậu, không có khả năng này.
Thuế xanh là loại thuế “xanh”, tức là liên quan đến năng lượng sạch. Phí xanh nhằm khuyến khích sử dụng năng lượng xanh hơn và hiệu quả hơn, điều này sẽ dẫn đến nhu cầu nhiều hơn về R&D năng lượng xanh, cũng như chuyển đổi nhanh hơn sang các loại năng lượng thân thiện với môi trường hơn. Từ góc độ kinh tế, thu phí xanh có thể được sử dụng để sửa chữa những thất bại của thị trường đối với các doanh nghiệp không phải gánh chịu toàn bộ chi phí gây ô nhiễm của họ. Kế toán kinh tế bổ sung chi phí xã hội và lợi ích vào kế toán thường xuyên. Có nghĩa là khi, ví dụ, khi một công ty gây ô nhiễm con sông được sử dụng bởi một khu dân cư lân cận hoặc phát thải carbon và hóa chất vào không khí gây ra sự gia tăng lớn bệnh ung thư phổi ở các khu vực lân cận, thì công ty đó sẽ phải trả một khoản chi phí. bởi công chúng. Thuế xanh có thể khắc phục sự thất bại này của thị trường bằng cách áp dụng chi phí một cách giả tạo cho các công ty thông qua thuế.
2. Vai trò của thuế xanh:
Các khoản thuế xanh, hay thuế sinh thái, được những người đề xuất mô tả là một cách để các chính phủ giải quyết sự thất bại của thị trường trước các yếu tố gây ra chi phí môi trường do sử dụng các nguồn tài nguyên không tái tạo hoặc các hoạt động sử dụng năng lượng kém hiệu quả. Chúng là các phiên bản của thuế Pigovian, với mục đích là làm cho doanh nghiệp tư nhân có một số mối liên hệ với gánh nặng xã hội trong hoạt động kinh doanh của họ.
Mục tiêu là tạo ra một sự thay đổi từ việc sử dụng các nguồn năng lượng hủy diệt như dầu mỏ và than đá, sang các nguồn năng lượng thân thiện với môi trường, chẳng hạn như gió, năng lượng mặt trời, địa nhiệt và thủy điện.
Một trong những cách mà các chính phủ áp dụng thuế xanh là thông qua thuế carbon; một hệ thống trong đó một doanh nghiệp hoặc công dân tư nhân phải trả một khoản phí liên quan đến quy mô lượng khí thải carbon của họ. Những người đề xuất kế hoạch này lập luận rằng những loại thuế này có thể thay thế những loại thuế đã có sẵn, như thuế trả lương, thuế doanh nghiệp, giá trị đất đai và tài sản.
– Thuế xanh là khoản bồi thường liên quan đến lượng khí thải carbon.
– Thuế được áp dụng đối với điện và xăng dầu để khuyến khích sử dụng năng lượng gió hoặc điện mặt trời.
– Thuế xanh có thể khiến giá hàng hóa tăng cao do người giàu phải trả thuế.
– Thuế có thể dựa trên giá của hàng hóa hoặc tổng thu nhập của một công ty. -Một trong những phương pháp mà các chính phủ áp dụng thuế xanh là thông qua thuế carbon, một hệ thống trong đó một doanh nghiệp hoặc tập đoàn tư nhân phải trả một khoản phí liên quan đến quy mô lượng khí thải carbon của họ.
– Một số ví dụ về thuế xanh được áp dụng ở các quốc gia trên thế giới bao gồm thuế của Canada đối với ô tô có mức tiêu thụ nhiên liệu lớn hơn 3 gallon cho mỗi 62 dặm. Người Đức đã thông qua thuế điện và xăng dầu, trong khi các nguồn điện tái tạo không bị đánh thuế. Đức cũng áp thuế nhằm ưu đãi các nhà máy điện hiệu quả hơn và tăng thuế xăng dầu trong khi giảm thuế thu nhập. -Đã có một số bất đồng về việc liệu các loại thuế này nếu được thực hiện, sẽ là lũy tiến hay lũy thoái.
– Dù có dự định hay không, thuế đánh vào tiêu dùng có thể vô tình gây tổn hại cho những người nghèo, những người cuối cùng tiết kiệm ít thu nhập của họ và tiêu dùng nhiều hơn. Thuế xanh hoặc thuế carbon đã bị chỉ trích trên cơ sở rằng những khoản thuế này cho phép các công ty và người giàu có thể thoát khỏi những tác động của hoạt động của họ trong khi người nghèo sẽ bị ảnh hưởng bất lợi khi họ không thể.
3. Ví dụ về thuế xanh trên thế giới:
Một số ví dụ về thuế xanh được áp dụng ở các quốc gia trên thế giới bao gồm thuế của Canada đối với ô tô sử dụng nhiên liệu kém hiệu quả. Thuế chỉ áp dụng cho các phương tiện chở khách mua từ Canada hoặc Hoa Kỳ phải đáp ứng hai tiêu chí: “Xe ô tô, SUV hoặc van có mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình có trọng số là 13 lít trên 100 km trở lên và được đưa vào sử dụng sau ngày 19 tháng 3. , Năm 2007. ” Các loại xe bị đánh thuế theo mức sau:
– Ít nhất 13, nhưng dưới 14 lít trên 100 km: 1.000 đô la
– Ít nhất 14 lít nhưng dưới 15 lít trên 100 km: 2.000 đô la
– Ít nhất 15, nhưng dưới 16 lít trên 100 km: 3.000 đô la16 lít trở lên trên 100 km: 4.0002 USD
Đức đã thông qua thuế điện và xăng dầu, trong khi các nguồn điện tái tạo không bị đánh thuế. Đức cũng áp đặt một loại thuế nhằm ưu đãi các nhà máy điện hiệu quả hơn và tăng thuế xăng dầu.3 4 Ngay từ năm 1993, Vương quốc Anh đã áp đặt một biện pháp leo thang giá nhiên liệu, nhưng nó đã kết thúc sau các cuộc biểu tình trên toàn quốc khi giá nhiên liệu cao hơn bất kỳ nơi nào. ở châu Âu
Nhiều chính sách khác nhau đã được đưa ra để thúc đẩy mục tiêu carbon thấp, nhiều chính sách trong số đó, trực tiếp hoặc gián tiếp, có tác động đến hóa đơn năng lượng. Chúng bao gồm các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính, khuyến khích cung cấp các nguồn năng lượng carbon thấp và cơ chế cung cấp tài trợ cho các chương trình tiết kiệm năng lượng. Một số, như Nghĩa vụ của Công ty Năng lượng (ECO), áp dụng “thuế” trực tiếp cho các hóa đơn. Những người khác, như Chương trình Mua bán Khí thải của Liên minh Châu Âu (EU ETS), bổ sung vào các hóa đơn bằng cách tăng chi phí sản xuất điện bằng cách đốt nhiên liệu hóa thạch.
DECC ước tính chi phí của các khoản thu xã hội và môi trường này ở mức 9% hóa đơn năng lượng, mặc dù cũng có kỳ vọng rằng trong dài hạn, một số biện pháp này sẽ giúp giảm hóa đơn năng lượng. Ví dụ, các biện pháp tiết kiệm năng lượng sẽ giúp mọi người sử dụng ít năng lượng hơn và giúp giảm nghèo về nhiên liệu.