Nguy cơ tổn thất có tính thảm họa là gì? Trong tiếng Anh nguy cơ tổn thất có tính thảm họa được gọi là Catastrophe Hazard. Đặc điểm và ví dụ thực tế?
Trong quá trình sinh sống và việc việc của các chủ thể trong xã hội loài người thì không phải lúc nào mẹ thiên nhiên cũng ưu đãi mà có đối lúc sẽ có những hiện tượng rủi ro như bão, lũ lụt hoặc khủng bố gây ảnh hưởng đến những người trong xã hội,… Khi những chủ thể này tham gia vào hợp đồng bảo hiểm thì những sự nguy hiểm này sẽ được gọi chung thành nguy cơ tổn thất có tính thảm họa.
Mục lục bài viết
1. Nguy cơ tổn thất có tính thảm họa là gì?
Trong tiếng Anh nguy cơ tổn thất có tính thảm họa được gọi là Catastrophe Hazard.
Trong ngành bảo hiểm, nguy cơ tổn thất có tính thảm họa là một loại rủi ro có thể khiến một số lượng lớn các chủ hợp đồng yêu cầu bồi thường cùng một lúc. Các ví dụ phổ biến về các nguy cơ thảm họa bao gồm động đất, lốc xoáy hoặc các hành động khủng bố.
Các nguy cơ tổn thất có tính thảm họa có thể gây tốn kém đặc biệt cho các công ty bảo hiểm. Vì lý do này, nhiều hợp đồng bảo hiểm sẽ có các điều khoản bồi thường cho người bảo hiểm trước những tổn thất do loại rủi ro này gây ra.
Các công ty bảo hiểm đang hoạt động trên nền kinh tế của một quốc gia sẽ thực hiện việc cung cấp bảo hiểm thảm họa cũng phải có sẵn một khoản dự phòng để đảm bảo công ty sẽ có đủ tiền để chi trả trong trường hợp xảy ra thảm họa thực sự. Nguy cơ tổn thất có tính thảm họa có thể rất khó để một công ty bảo hiểm xác định và định nghĩa chính xác. Cũng chính bởi vì thế mà để bảo vệ bản thân trước nguy cơ tổn thất có tính thảm họa, một số công ty bảo hiểm không cung cấp bảo hiểm thảm họa. Trong khái niệm liên quan đến nguy cơ tổn thất có tính thảm họa thì trong này tác giả sẽ phân tích các thuật ngữ một cách độc lập như: nguy cơ tổn thất là gì? thảm họa là gì? để quý bạn đọc có thể hiểu hơn về khái niệm nguy cơ tổn thất có tính thảm họa như sau:
– Nguy cơ tổn thất là một thuật ngữ được sử dụng trong luật hợp đồng để xác định bên nào phải chịu trách nhiệm rủi ro đối với thiệt hại xảy ra đối với hàng hóa sau khi việc bán hàng đã hoàn thành, nhưng trước khi việc giao hàng xảy ra. Những cân nhắc như vậy thường có hiệu lực sau khi hợp đồng được hình thành nhưng trước khi người mua nhận hàng, điều tồi tệ sẽ xảy ra.
– Thảm họa là một vấn đề nghiêm trọng xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn hoặc dài gây ra thiệt hại về người, vật chất, kinh tế hoặc môi trường trên diện rộng vượt quá khả năng đối phó của cộng đồng hoặc xã hội bị ảnh hưởng bằng cách sử dụng các nguồn lực của mình. Các nước đang phát triển phải gánh chịu chi phí lớn nhất khi thiên tai xảy ra – hơn 95% tổng số người chết do thiên tai xảy ra ở các nước đang phát triển và thiệt hại do thiên tai ở các nước đang phát triển lớn hơn 20 lần (tính theo phần trăm GDP) so với các nước công nghiệp phát triển.
Bất kể thảm họa xảy ra trong xã hội nào, chúng đều có xu hướng tạo ra sự thay đổi trong chính phủ và đời sống xã hội. Chúng thậm chí có thể thay đổi tiến trình lịch sử bằng cách ảnh hưởng rộng rãi đến toàn bộ dân số và bộc lộ sự quản lý yếu kém hoặc tham nhũng bất kể thông tin được kiểm soát chặt chẽ như thế nào trong một xã hội.
Một trong những giả định cơ bản đằng sau hầu hết các hợp đồng bảo hiểm là ý tưởng cho rằng các rủi ro cá nhân mà các chủ hợp đồng phải đối mặt không có mối tương quan cao với nhau. Nói cách khác, các công ty bảo hiểm thường cho rằng, nếu một sự kiện xảy ra khiến một trong những khách hàng của họ phải yêu cầu bồi thường, thì cùng một sự kiện đó cũng sẽ không làm tăng khả năng khách hàng thứ hai hoặc thứ ba nộp đơn yêu cầu bồi thường. Đây là một cân nhắc quan trọng đối với các công ty bảo hiểm bởi vì, nếu những giả định này đúng, nó cho phép công ty bảo hiểm giảm thiểu rủi ro tổng thể của họ bằng cách đa dạng hóa các hợp đồng bảo hiểm của họ trên một nhóm lớn các chủ hợp đồng. Mặt khác, nếu rủi ro của họ tương quan chủ yếu, thì việc thêm khách hàng bổ sung sẽ không làm giảm rủi ro tổng thể của họ.
Từ góc độ này, rủi ro thảm họa như thiên tai hoặc chiến tranh gây ra rủi ro nghiêm trọng cho các công ty bảo hiểm. Rốt cuộc, nếu một sự kiện thời tiết khắc nghiệt xảy ra với một cộng đồng cụ thể, nhiều hoặc thậm chí tất cả các chủ hợp đồng trong cộng đồng đó có thể cần phải gửi yêu cầu bồi thường cùng một lúc. Tùy thuộc vào quy mô của thảm họa, các yêu cầu tổng hợp này có thể nhiều hơn ngân sách của công ty bảo hiểm, có khả năng buộc họ phá sản. Vì lý do này, nhiều hợp đồng bảo hiểm miễn trừ đặc biệt cho người bảo hiểm trong việc bảo hiểm những loại rủi ro này. Nếu khách hàng muốn nhận bảo hiểm này, họ cần phải mua riêng nó dưới dạng tiện ích bổ sung hoặc dưới dạng chính sách mới. Với những chi phí tiềm ẩn liên quan, việc bảo hiểm những loại nguy cơ tổn thất có tính thảm họa này có thể đòi hỏi phí bảo hiểm rất lớn.
2. Đặc điểm và ví dụ thực tế:
2.1. Đặc điểm của nguy cơ tổn thất có tính thảm họa:
Cũng như các nội dung và các thuật ngữ khác trên linh vừng kinh doanh của các chủ thể thì mỗi khái niệm đều có những đặc điểm riêng biệt để giúp các chủ thể khi tham gia trong thị trường kinh tế này có thể định nghĩa mỗi hoạt động hoặc mỗi rủi ro với tên riêng của nó đối với khái niệm về nguy cơ tổn thất có tính thảm họa cũng thế. Do đó, từ khái niệm trên, có thể đưa ra các đặc điểm của nguy cơ tổn thất có tính thảm họa trong thị trường bảo hiểm như sau:
– Nguy cơ tổn thất có tính thảm họa là một loại rủi ro thường không có trong hợp đồng bảo hiểm. Khi những rủi ro này được bảo hiểm, chúng có thể chứng tỏ là cực kỳ tốn kém cho công ty bảo hiểm.
– Thông thường, các chủ hợp đồng cần mua các tiện ích bổ sung hoặc các chính sách đặc biệt để đảm bảo chống lại những rủi ro này, có khả năng yêu cầu phí bảo hiểm rất cao.
– Cách thức hoạt động của các hiểm họa thiên tai.
– Ngoài việc loại trừ những rủi ro này khỏi hợp đồng bảo hiểm, một cách khác mà các công ty bảo hiểm tìm cách giảm thiểu nguy cơ rủi ro thảm họa là mang theo một quỹ dự phòng thảm họa. Nếu một nguy cơ tổn thất có tính thảm họa xảy ra, công ty bảo hiểm có thể trích quỹ này và sử dụng nó để trang trải cho các khoản bồi thường đột ngột.
– Hơn nữa, nếu một thảm họa mới xảy ra ở một khu vực chưa từng trải qua một thảm họa trước đó, thì khu vực đó có thể được chỉ định là khu vực có nguy cơ cao và được miễn phạm vi bảo hiểm trong các hợp đồng tương lai.
2.2. Ví dụ thực tế về nguy cơ tổn thất có tính thảm họa:
Trong thực tế thì sẽ có một số lí do khiến cho việc bảo hiểm chống lại nguy cơ tổn thất có tính thảm họa có thể trở nên rất rủi ro cho công ty bảo hiểm như: những tác động tài chính của việc giải quyết các khiếu nại do sự kiện thảm họa có thể lớn hơn số tiền công ty có sẵn hoặc công ty không thể có đủ thời gian cần thiết để giả quyết những khiếu nại đó dựa trên bản chất của thảm họa.
Một ví dụ gần đây về nguy cơ thảm họa xảy ra vào năm 2017, khi cơn bão Harvey tàn phá nhiều cộng đồng trên khắp Texas. Đây là một sự kiện thảm khốc không lường trước được khiến nhiều người và các công ty bảo hiểm mất cảnh giác. Nếu không có bảo hiểm thảm họa, nhiều người có thể không có mọi thứ họ cần để thay thế được bảo hiểm chi trả.
Một khu vực bị ảnh hưởng bởi thảm họa phát sinh từ thiên nhiên cũng có thể có tác động lâu dài đến bảo hiểm tiềm năng cho cư dân trong tương lai. Ví dụ: nếu một khu vực không được coi là có nguy cơ cao về thiên tai – chẳng hạn như lốc xoáy hoặc bão – bị thiên tai, các công ty bảo hiểm có thể phân loại lại khu vực đó là khu vực có nguy cơ cao với thảm họa. Việc ấn định mức độ nguy cơ tổn thất có tính thảm họa cao cho những cư dân đã trải qua thiên tai có thể làm cho tỷ lệ bảo hiểm cao hơn hoặc tăng phí bảo hiểm cho các hợp đồng bảo hiểm hiện có.