Hiện nay, trên thực tế có nhiều loại hình cấu trúc thị trường. Một trong số đó chúng ta sẽ phải kể đến thiểu quyền, đây là loại hình cấu trúc thị trường có những đặc trưng cơ bản và có những ý nghĩ quan trọng đối với mỗi quốc gia. Vậy thiểu quyền là gì? Phân tích thị trường thiểu quyền và các lưu ý?
Mục lục bài viết
1. Thiểu quyền là gì?
Thiểu quyền là loại hình cấu trúc thị trường được đặc trưng bởi các yếu tố sau đây:
– Một ít hay vài người bán và nhiều người mua:
Phần lớn mức cung của thị trường nằm trong tay một vài công ty tương đối lớn bán hàng cho những người mua tương đối nhỏ.
– Sản phẩm đồng nhất hoặc phân biệt:
Sản phẩm do các nhà cung cấp chào bán có thể đồng nhất, hoặc như thường xảy ra hơn là phân biệt với nhau theo một hay nhiều phương diện.
Những khác biệt này có thể mang bản chất vật chất, đặc điểm sử dụng hay chỉ thuần túy là tưởng tượng, hiểu theo nghĩa những khác biệt nhân tạo là do các biện pháp quảng cáo, trưng bày và xúc tiến bán hàng tạo ra.
– Khó gia nhập thị trường:
Hàng rào gia nhập cao, làm cho các công ty mới khó có thể gia nhập thị trường.
Thiểu quyền trong tiếng Anh là gì?
Thiểu quyền trong tiếng Anh là oligopoly, oligopolist.
2. Phân tích thị trường thiểu quyền:
– Đặc trưng đầu tiên của thiểu quyền đó là “một ít” hay “vài” hàm ý có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp hoạt động trên cùng một thị trường. Bởi vì điều kiện này mà khi các chủ thể quyết định giá cả hay đưa ra chiến lược thị trường, các doanh nghiệp phải tính đến phản ứng hay biện pháp chống trả của đối thủ cạnh tranh.
– Chẳng hạn như biện pháp giảm giá cả có vẻ có lợi cho công ty không có đối thủ cạnh tranh, nhưng nếu nó dẫn đến sự cắt giảm giá cả của công ty khác để bảo vệ thị phần, thì tất cả các doanh nghiệp đều bị giảm lợi nhuận.
– Vì lí do cụ thể này, các chủ thể là những nhà thiểu quyền ít có xu hướng cạnh tranh về giá cả (chiến tranh giá cả) và các chủ thể này cũng thường sử dụng các cơ chế khác nhau để nhằm mục đích phối hợp giá cả (như chỉ đạo ngầm, các-ten).
– Các chủ thể là các nhà thiểu quyền cạnh tranh với nhau bằng cách sử dụng nhiều chiến lược phân biệt sản phẩm khác nhau (quảng cáo, xúc tiến bán hàng, tung sản phẩm mới) nhằm mục đích để có thể duy trì và nâng cao tỉ suất lợi nhuận.
– Biện pháp giảm giá dễ bị đối phó, còn phân biệt sản phẩm rất khó đối phó và do vậy nó tạo ra cơ hội tiềm tàng cho sự gia tăng thị phần một cách liên tục.
Sư phân biệt sản phẩm sẽ làm tăng doanh thu tại mức giá hiện hành, hoặc những chi phí tăng thêm có thể được các chủ thể chuyển vào giá bán và khách hàng phải chịu. Sự phân biệt sản phẩm bằng cách tạo ra sự trung thành với nhãn hiệu hàng hóa của các chủ thể là những nhà cung cấp hiện có làm cho doanh nghiệp mới khó gia nhập thị trường.
Hệ quả:
– Các lí thuyết truyền thống (tĩnh) đã chỉ ra rằng thị trường thiểu quyền dẫn tới kết quả thị trường không tối ưu, tương tự như trong thị trường độc quyền.
Sản lượng bị giới hạn ở mức thấp hơn có chi phí tối thiểu; các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả tồn tại được vì nó lẩn tránh sự cạnh tranh về giá cả.
Trong khi đó, sự cạnh tranh bằng cách phân biệt sản phẩm làm tăng chi phí cung ứng; và giá cả được qui định ở mức cao hơn chi phí cung tối thiểu, tạo ra lợi nhuận trên mức bình thường của nhà thiểu quyền và mức lợi nhuận quá cao này được bảo vệ bằng hàng rào gia nhập.
– Và, bên cạnh đó cũng giống thị trường độc quyền, cách phân tích này không tính đến những mối lợi kinh tế qui mô tạo ra trong việc cắt giảm chi phí, giá cả của ngành và những đóng góp quan trọng khác của cạnh tranh thiểu quyền đối với sự đổi mới, phát triển sản phẩm.
Lưu ý:
– Một số người dịch từ “Oligopoly” ra Tiếng Việt đó là độc quyền nhóm hay độc quyền tập đoàn. Cách dịch này đã cho thấy khái niệm thị trường thiểu quyền bị hiểu sai, vì trong tiếng Anh “oligopoly” có nghĩa đen là thị trường có một ít người bán.
– Nếu các chủ thể cấu kết với nhau, chúng ta có độc quyền nhóm hay độc quyền tập đoàn, và có thể sử dụng mô hình thị trường độc quyền (một người bán) để nghiên cứu nó.
– Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người bán không cấu kết với nhau và mô hình sử dụng để phân tích chúng khác với mô hình về thị trường độc quyền, ví dụ mô hình nhị quyền Cournot. Như vậy, ta nhận thấy rằng, khái niệm độc quyền nhóm quá hẹp, chỉ nói lên được một dạng (dạng cấu kết) của thị trường thiểu quyền.
3. Các thuật ngữ liên quan:
Rào cản gia nhập:
– Ta hiểu về rào cản gia nhập như sau:
Rào cản gia nhập trong tiếng Anh là Barriers to Entry.
Rào cản gia nhập là thuật ngữ kinh tế mô tả sự tồn tại của chi phí khởi nghiệp cao hoặc các trở ngại khác ngăn cản các đối thủ cạnh tranh mới dễ dàng thâm nhập vào một ngành hoặc lĩnh vực kinh doanh.
Rào cản gia nhập có lợi cho các công ty đang hoạt động bởi vì rào cản gia nhập bảo vệ cho doanh thu và lợi nhuận của các chủ thể.
Rào cản gia nhập phổ biến bao gồm lợi ích thuế đặc biệt cho các công ty hiện có, bằng sáng chế, nhận diện thương hiệu mạnh hoặc lòng trung thành của khách hàng và chi phí chuyển đổi cao.
– Rào cản gia nhập từ chính phủ:
Các ngành công nghiệp chịu quản lí và điều tiết bởi chính phủ thường khó xâm nhập nhất; ví dụ các hãng hàng không thương mại, nhà thầu quốc phòng và các công ty cáp. Chính phủ tạo ra những rào cản gia nhập vì những lí do khác nhau.
Trong trường hợp của hàng không thương mại, không chỉ qui định chặt chẽ, mà chính phủ còn giới hạn các thành viên mới tham gia để giới hạn giao thông hàng không và đơn giản hóa việc giám sát. Các công ty cáp chịu bị hạn chế vì cơ sở hạ tầng của họ đòi hỏi phải sử dụng nhiều đất công.
Đôi khi chính phủ áp đặt các rào cản gia nhập vì áp lực vận động hành lang từ các công ty hiện có.
– Rào cản gia nhập tự nhiên
Nhận diện thương hiệu và lòng trung thành của khách hàng đóng vai trò là rào cản gia nhập đối với các hãng tham gia tiềm năng.
Chi phí chuyển đổi cao đối với người tiêu dùng cũng là rào cản gia nhập cho những hãng mới tham gia tham gia thị trường gặp khó khăn khi lôi kéo khách hàng tiềm năng trả thêm tiền để thực hiện chuyển đổi nhà cung cấp dịch vụ.
Mô hình nhị quyền Cournot:
Mô hình nhị quyền Cournot trong tiếng Anh là Cournot’s duopoly model.
Mô hình nhị quyền Cournot được hiểu là mô hình về thị trường trong đó chỉ có hai doanh nghiệp cạnh tranh nhau.
Cuộc chiến giá cả:
Cuộc chiến giá cả trong tiếng Anh là Price War.
Cuộc chiến giá cả là sự cạnh tranh liên tục giữa các công ty đối thủ bằng cách hạ thấp giá cả sản phẩm của họ, nhằm hạ gục đối thủ cạnh tranh và giành thị phần lớn hơn. Cuộc chiến giá cả có thể được thực hiện trong ngắn hạn để tăng doanh thu hoặc sử dụng như một chiến lược dài hạn.
Cuộc chiến giá cả có thể được ngăn chặn thông qua chiến lược quản lí giá, dựa trên hiểu biết sâu sắc về cạnh tranh, sản phẩm không có mức giá khiêu khích, và thậm chí là các hoạt động giao thiệp thường xuyên với các đối thủ cạnh tranh.
Khi một công ty tìm cách tăng thị phần, cách dễ nhất thường là giảm giá, qua đó làm tăng doanh số. Các đối thủ cạnh tranh có thể bị buộc phải giảm giá theo nếu họ cung cấp các sản phẩm tương tự. Khi giá giảm và số lượng bán tăng lên thì người tiêu dùng được lợi.
Cuộc chiến giá cả cuối cùng sẽ dẫn đến một mức giá mà chỉ một công ty có đủ khả năng cung cấp sản phẩm mà vẫn có lãi. Một số công ty thậm chí sẽ bán lỗ trong nỗ lực loại bỏ hoàn toàn các đối thủ cạnh tranh.
Các-ten:
Các-ten trong tiếng Anh là Cartel.
Các-ten được hiểu là thoả thuận hợp tác chính thức về giá cả, sản lượng và những điều kiện khác giữa các doanh nghiệp trong thị trường thiểu quyền. Những thoả thuận như vậy làm giảm cạnh tranh và tạo ra sự hợp tác giữa các doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu như tối đa hoá lợi nhuận hay gây khó khăn cho sự gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới. Nhìn chung, các thành viên các-ten phải trả một khoản phụ phí để đảm bảo rằng họ quyết tâm thực hiện những mục tiêu nêu ra trong các-ten.
Khi cùng liên kết với nhau, các doanh nghiệp trong các-ten hành động thống nhất và tối đa hoá lợi nhuận như một nhà độc quyền, vì vậy người ta còn gọi các-ten cụ thể là độc quyền nhóm hay tập đoàn độc quyền. Khi phân tích các-ten, các nhà kinh tế quan tâm đến những điều kiện dẫn tới sự mất ổn định của nhóm tức các nguyên nhân phá vỡ các-ten. Đặc biệt, vấn đề gian lận trong các-ten được các nhà kinh tế quan tâm nhiều nhất.
Ngoài các-ten của các doanh nghiệp, trên thế giới còn có các-ten của các nước, tức hiệp định giữa các quốc gia nhằm mục đích để ổn định giá cả và sản lượng hoặc một số phương diện khác của thị trường.