Như chúng ta đã biết nền kinh tế phat triển một phần dựa vào các giá trị kinh tế từ kinh tế biển, biển mang lại nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào khoáng sản phục vụ cho nhu cầu của con người, chúng ta không thể phủ nhận tiềm năng và giá trị kinh tế mà biển mang lại.
Mục lục bài viết
1. Kinh tế biển là gì?
Khi nhắc tới kinh tế biển hay với tên gọi khác là kinh tế đại dương, kinh tế xanh tiếng anh là blue economylà nền kinh tế tập trung khai thác các nguồn lợi từ đại dương dựa trên sự đa dạng sinh học, hệ sinh thái biển, các loài sinh vật và tài nguyên dưới đáy biển nhưng đồng thời đáp ứng nhiệm vụ bảo tồn, phát triển để tạo ra giá trị kinh tế bền vững lâu dài và với nền kinh tế biển ước tính có thể mang lại 3000 – 6000 tỉ USD trên một năm và tạo việc làm cho hơn 3 tỉ người trên thế giới.
2. Qui hoạch và phát triển kinh tế biển:
Căn cứ theo quy định tại điều 44. Quy hoạch phát triển kinh tế biển Luật Biển Việt nam 2012 quy định cụ thể như sau:
2.1. Căn cứ lập quy hoạch phát triển kinh tế biển bao gồm:
+ Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của cả nước; chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia;
+ Định hướng chiến lược phát triển bền vững và chiến lược biển;
+ Đặc điểm, vị trí địa lý, quy luật tự nhiên của các vùng biển, vùng ven biển và hải đảo;
+ Kết quả điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường biển; thực trạng và dự báo nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển của cả nước, của vùng và của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương;
+ Giá trị tài nguyên và mức độ dễ bị tổn thương của môi trường biển;
+ Nguồn lực để thực hiện quy hoạch.
Như vậy qua quy định này chúng ta thấy việc quy hoạch biển phải dựa trên quy định do pháp luật quy định, theo đó thực hiện theo các căn cứ với mục đích để tăng cường quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển tự nhiên; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và để phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, tăng cường hợp tác khu vực và toàn cầu và bảo đảm quyền tham gia, hưởng lợi và trách nhiệm của người dân, tổ chức, cá nhân có liên quan đối với bảo vệ môi trường biển, hải đảo và phát triển bền vững kinh tế biển.
Theo như trên quy định này chúng ta thấy rằng về quan điểm phát triển, dựa trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển và để bảo đảm hài hoà giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển, tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh và theo đó để phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.
Cần phải phát triển các ngành kinh tế biển trong số đó nhất là du lịch, dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác, nuôi trồng và khai thác hải sản xa bờ, công nghiệp ven biển, năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới và đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật, công nghệ trong đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của ngư dân trong quá trình khai thác thủy sản trên các vùng biển, tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành phát triển đô thị và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh.
2.2. Nội dung quy hoạch phát triển kinh tế biển bao gồm:
+ Phân tích, đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và hiện trạng khai thác, sử dụng biển;
+ Xác định phương hướng, mục tiêu và định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển;
+ Phân vùng sử dụng biển cho các mục đích phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; xác định các vùng cấm khai thác, các vùng khai thác có điều kiện, khu vực cần bảo vệ đặc biệt cho mục đích quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, bảo tồn hệ sinh thái và đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình trên biển;
+ Xác định vị trí, diện tích và thể hiện trên bản đồ các vùng sử dụng mặt biển, đáy biển, đảo;
+ Xác định cụ thể các vùng bờ biển dễ bị tổn thương như bãi bồi, vùng bờ biển xói lở, rừng phòng hộ, đất ngập nước, cát ven biển, xác định vùng đệm và có các giải pháp quản lý, bảo vệ phù hợp;
+ Giải pháp và tiến độ thực hiện quy hoạch.
Như chúng ta đã thấy như trên chúng tôi đưa ra quy định về nội dung quy hoạch phat triển kinh tế biển qua đó chúng ta thấy Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững, công tác tìm kiếm cứu nạn, an toàn hàng hải cơ bản được bảo đảm, công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển được triển khai chủ động, toàn diện. Kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển đất nước và với những hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư, với đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng biển được cải thiện. Như vậy ta thấy để tiến hành điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực về biển đạt được nhiều kết quả tích cực với công tác quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng được chú trọng và với hệ thống chính sách, pháp luật, bộ máy quản lý nhà nước về biển, đảo từng bước được hoàn thiện và phát huy hiệu lực, hiệu quả.
3. Vai trò của kinh tế biển đối với Việt Nam:
Hiện nay theo số liệu thống kê ở biển đông ta thấy nó cung cấp nguồn lợi hải sản rất quan trọng, theo các điều tra về nguồn lợi hải sản, tính đa dạng sinh học trong vùng biển nước ta đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú và trong đó, có 6.000 loài động vật đáy, 2.400 loài cá cụ thể trong đó có 130 loài cá kinh tế, 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 225 loài tôm biển … Trữ lượng cá biển ước tính khoảng 3,1 – 4,1 triệu tấn, khả năng khai thác là 1,4 – 1,6 triệu tấn với nguồn lợi hải sản phong phú đã góp phần đưa ngành thủy sản thành một trong những ngành kinh tế chủ đạo với giá trị xuất khẩu đứng thứ ba cả nước.
Dầu khí được hiểu là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa nước ta với trữ lượng và giá trị kinh tế cao, có tầm chiến lược quan trọng và ở hiện nay chúng ta đã xác định được nhiều bể trầm tích như các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn … được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất và khai thác thuận lợi với tổng trữ lượng dự báo địa chất của toàn thềm lục địa Việt Nam xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai thác 4 – 5 tỷ tấn với trữ lượng khí dự báo khoảng 1.000 tỷ m3.
Phải kể tới các dải ven biển còn là bàn đạp tiến ra biển, là hậu phương hỗ trợ các hoạt động ở những vùng biển xa bờ, thông qua các trung tâm kinh tế trên các hải đảo và chính nơi này là chỗ trú ngụ tự nhiên, nơi sinh sản và ươm nuôi ấu trùng của nhiêu loài thủy sinh vật không chỉ ở ngay trong vùng, mà còn từ ngoài khơi vào theo mùa. Các hệ sinh thái như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn…đều tập trung tại đây, cung cấp tiềm năng bảo tồn đa dạng sinh học biển và nguồn giống hải sản tự nhiên cho nghề khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản và theo đó chúng có tính liên kết sinh thái tự nhiên mật thiết với nhau, tạo ra những dây xích sinh thái quan trọng đối với toàn vùng biển tạo thành vùng có khả năng phát triển nuôi trồng thủy sản với diện tích khoảng 1.130.000 ha, trong những năm qua đã đóng góp gần 60% tổng sản lượng thủy sản toàn quốc, góp phần đáp ứng gần 40% protein cho người dân.
Bên cạnh đó hiện nay ở Việt Nam sở hữu chiều dài đường bờ biển hơn 3.260 km và đặc biệt hơn là có nhiều bãi biển cát trắng, hang động, vũng vịnh nổi tiếng và 2.773 hòn đảo ven bờ cùng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và với sự phân dị về khí hậu và cấu trúc địa mạo đường bờ, sự đa dạng và phong phú của các các làng nghề…, Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển du lịch biển trong khu vực và trên thế giới và đây là một trong những lợi thế chủ yếu của du lịch Việt Nam trong phát triển du lịchlà một trong những ngành công nghiệp không khói đặc biệt trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh quốc tế hiện nay.