Quan hệ tiền tệ quốc tế là gì? Trong tiếng anh thì quan hệ tiền tệ quốc tế được biết đến với tên gọi đó chính là International Monetary Relations. Các chủ thể của quan hệ tiền tệ quốc tế?
Tiền phục vụ các chức năng kinh tế quan trọng, là một phương tiện trao đổi, một kho lưu trữ giá trị và một đơn vị tài khoản. Trên trường quốc tế, nó đặt ra những thách thức đặc biệt. Trong trường hợp không có tiền tệ thế giới, loại tiền nào nên được sử dụng trong các giao dịch xuyên biên giới quốc gia? Các giá trị của đồng tiền quốc gia được xác định trong mối quan hệ với nhau như thế nào và làm thế nào để các giá trị đó được duy trì theo thời gian? Quan hệ tiền tệ quốc tế bao gồm phạm vi của các thể chế, mối quan hệ và thói quen giúp tiền tệ hoạt động trên trường quốc tế.
Các vấn đề kỹ thuật khó khăn nằm ở trọng tâm của các mối quan hệ tiền tệ quốc tế: Chúng bao gồm việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái để điều chỉnh sự mất cân bằng trong thương mại và dòng vốn và cung cấp thanh khoản để thích ứng với tăng trưởng kinh tế. Quan hệ tiền tệ quốc tế đồng thời gắn liền với quyền lực và lợi ích quốc gia. Lịch sử quan hệ tiền tệ quốc tế có thể được hiểu là bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau.
1. Quan hệ tiền tệ quốc tế là gì?
Tiền tệ là một phạm trù lịch sử, tiền tệ là phương tiện trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Tóm lại, đó là tiền, ở dạng giấy hoặc tiền xu, thường do chính phủ phát hành và thường được chấp nhận theo mệnh giá của nó như một phương thức thanh toán. Tiền tệ là phương tiện trao đổi chính trong thế giới hiện đại, từ lâu đã thay thế hàng trao đổi như một phương tiện giao dịch hàng hóa và dịch vụ. Các loại tiền ảo như bitcoin không có sự tồn tại thực tế hoặc sự hậu thuẫn của chính phủ và được giao dịch và lưu trữ dưới dạng điện tử.
Đồng thời cũng là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Trong tiếng anh thì quan hệ tiền tệ quốc tế được biết đến với tên gọi đó chính là International Monetary Relations.
Quan hệ tiền tệ quốc tế được hiểu một cách đơn giản và chính xác nhất đó chính là tổng thể các mối quan hệ kinh tế của các chủ thể gắn liền với chức năng của tiền tệ với tư cách là tiền tệ thế giới phục vụ cho hoạt động thương mại hàng hóa và dịch vụ quốc tế. Đồng thời thì quan hệ tiền tệ quốc tế còn có thể thực hiện việc di chuyển tư bản, cho vay và tài trợ và trao đổi khoa học kĩ thuật, du lịch quốc tế và các khoản chuyển của tư nhân cũng như giữa các quốc gia với nhau.
Nói một cách chính xác nhất thì quan hệ tiền tệ quốc tế chính là tổng thể các mối quan hệ kinh tế hình thành trong quá trình thực hiện các hoạt động thanh toán quốc tế cũng như các giao dịch về tài chính và tiền tệ.
Tiền tệ ở một số hình thức đã được sử dụng ít nhất 3.000 năm. Tiền, thường ở dạng tiền xu, được chứng minh là rất quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại xuyên lục địa. Tiền tệ là hình thức thanh toán được chấp nhận chung, thường do chính phủ phát hành và được lưu hành trong phạm vi quyền hạn của quốc gia đó. Giá trị của bất kỳ loại tiền tệ nào cũng biến động liên tục so với các loại tiền tệ khác.
Thị trường hối đoái tồn tại như một phương tiện thu lợi nhuận từ những biến động đó. Nhiều quốc gia chấp nhận đô la Mỹ để thanh toán, trong khi những quốc gia khác gắn giá trị tiền tệ của họ trực tiếp với đô la Mỹ. Một đặc điểm chính của tiền hiện đại là bản thân nó hoàn toàn vô giá trị. Có nghĩa là, hóa đơn là những mảnh giấy chứ không phải là đồng xu được làm bằng vàng, bạc hoặc đồng. Khái niệm sử dụng giấy như một loại tiền tệ có thể đã được phát triển ở Trung Quốc từ năm 1000 trước Công nguyên, nhưng việc chấp nhận một tờ giấy để đổi lấy một thứ có giá trị thực đã mất nhiều thời gian để bắt đầu. Các loại tiền hiện đại được phát hành trên giấy với nhiều mệnh giá khác nhau, với các vấn đề phân số dưới dạng tiền xu.
Thực tế có hai loại chế độ tiền tệ quốc tế lý tưởng, với các hệ thống thực tế có xu hướng hướng tới chế độ này hoặc hướng khác. Một là hệ thống tỷ giá cố định, trong đó các đồng tiền quốc gia được ràng buộc với nhau theo một tỷ giá ngang giá được công bố công khai (thường được thiết lập hợp pháp). Một số hệ thống tỷ giá cố định liên quan đến một liên kết chung với một hàng hóa như vàng hoặc bạc; những người khác sử dụng một chốt với một đơn vị tiền tệ quốc gia như đô la Mỹ. Chế độ tiền tệ lý tưởng-điển hình khác là một hệ thống thả nổi tự do, trong đó giá trị tiền tệ quốc gia thay đổi tùy theo điều kiện thị trường và các chính sách kinh tế vĩ mô của quốc gia. Có nhiều khả năng chuyển màu giữa các điểm cực trị này.
2. Các chủ thể của quan hệ tiền tệ quốc tế:
Trong quan hệ tiền tệ quốc tế thì theo như tác giả tìm hiểu trong quan hệ này có sự tham gia của các chủ thể như: ngân hàng đầu tư và thương mại, các ngân hàng trung ương của các quốc gia, các thể chế phi ngân hàng, các Brokers, các tổ chức tài chính, tín dụng như IMF, WB và cuối cùng là các cá nhân. Mỗi chủ thể tham gia trong quan hệ tiền tệ quốc tế đều có những chức năng và mục đích riêng biệt khác nhau của từng chủ thể một theo như quy định của quan hệ tiền tệ quốc tế. Do đó, trong nội dung mục 2 này tác giả sẽ gửi tới quý bạn đọc một số nội dung liên quan đến các chủ thể tham gia trong quan hệ tiền tệ quốc tế như sau:
– Chủ thể thứ nhất được tác giả nêu ra ở đây đó chính là các ngân hàng đầu tư và thương mại: trước tiên phải kể đến là các ngân hàng xuyên quốc gia (TNBs). Những ngân hàng đầu tư và thương mại này chuyên thực hiện các giao dịch ngoại hối với nhau hoặc với các TNCs (công ty xuyên quốc gia). Chiếm vai trò chủ đạo trong thực hiện các giao dịch ngoại hối là các ngân hàng xuyên quốc gia toàn cầu với hệ thống mạng lưới chi nhánh và ngân hàng con ở khắp thế giới. Hiện nay có khoảng 100 ngân hàng lớn nhất thế giới được liệt vào nhóm này.
Ngân hàng đầu tư dành để hỗ trợ các công ty, tổ chức và các tổ chức lớn khác (chẳng hạn như chính phủ) quản lý tiền của họ. Nó được thiết kế để cung cấp cho khách hàng một loạt các lựa chọn khác nhau để giúp họ thành công về mặt tài chính. Các ngân hàng đầu tư hỗ trợ các khách hàng lớn của họ bằng cách bảo lãnh phát hành vốn chủ sở hữu và chứng khoán nợ, giúp tạo vốn và phát hành cổ phiếu. Các ngân hàng đầu tư cũng thường luôn tham gia vào quá trình mua bán và sáp nhập. Ngân hàng đầu tư được cấu trúc để trợ giúp các đơn vị lớn. Một trong những chức năng quan trọng nhất mà ngân hàng đầu tư thực hiện là phát hành cổ phiếu cho các công ty, cụ thể là đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) của công ty. Khi một công ty đưa cổ phiếu của mình ra công chúng lần đầu tiên, dòng tiền có thể bắt đầu trở nên khó hiểu. Các ngân hàng đầu tư vào cuộc để giúp xử lý vấn đề.
– Chủ thể thứ hai thì không phải là chủ thể nào khác mà đó chính là các ngân hàng trung ương của các quốc gia. Do đó, theo như quy định thì các ngân hàng trung ương của các quốc gia sẽ thực hiện những biện pháp can thiệp cần thiết để điều chỉnh tỉ giá hối đoái và quản lí dự trữ vàng và ngoại tệ cũng như các khoản nợ của quốc gia. Đồng thời các ngân hàng trung ương của các quốc gia thực hiện hoạt dộng giám sát các ngân hàng thương mại, thực hiện chức năng kiểm soát và điều tiết ngoại hối.
– Chủ thể thứ ba là các thể chế phi ngân hàng tham gia vào hoạt động quan hệ tiền tệ quốc tế bao gồm các quỹ đầu tư, quĩ bảo hiểm, ngoài ra còn có một nhân tố mới xuất hiện trên thị trường tiền tệ thế giới vào cuối thế kỉ XX là các quĩ phòng hộ (Hedge Fund – HF).
– Chủ thế thứ tư là các Brokers tham gia vào hoạt động quan hệ tiền tệ quốc tế với vai trò là những trung gian chuyên nghiệp trên thị trường tiền tệ. Họ giúp các ngân hàng thực hiện các lệnh mua hay bán ngoại hối. Để được hành nghề môi giới ngoại hối thì phải có giấy phép.
– Chứ thể thứ năm là các tổ chức tài chính, tín dụng như IMF, WB tham gia vào hoạt động quan hệ tiền tệ quốc tế với vai trò thực hiện các hoạt động điều tiết trên thị trường tiền tệ thế giới.
– Chủ thể thứ sau là các cá nhân, tuy nhiên đối với những chủ thể này được xác định có tham gia vào hoạt động liên quan đến tiền tệ nhưng với số lượng nhỏ như chi trả du lịch, học bổng, nhuận bút…
Các quan hệ tiền tệ được tổ chức dưới các hình thức khác nhau và được điều chỉnh bởi pháp luật quốc gia và luật pháp quốc tế. Hình thức tổ chức và điều chỉnh các quan hệ tiền tệ được gọi chung là hệ thống tiền tệ.