Cán cân dịch vụ là gì? Trong tiếng Anh thì cán cân dịch vụ được biết đến với tên gọi đó chính là Service balance Đặc điểm và các dịch vụ của cán cân dịch vụ?
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì cán cân dịch vụ giữ vai trò quan trọng trong bảng cân đối dịch vụ của các nước trên thế giới. Cán cân dịch vụ sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, tình hình ngoại hối và ngoại thương của một nước. Nhờ vào cán cân dịch vụ trong một thời kì nhất định mà chính phủ của mỗi quốc gia có thể đối chiếu cũng như dịch vụ có trên thị trường kinh tế để đưa ra các quyết sách về việc điều chỉnh nền kinh tế của đất nước mình.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm và đặc điểm của cán cân dịch vụ là gì?
Trong nội dung của mục 1 này trước khi tác giả gửi đến quý bạn đọc định nghĩa và đặc điểm của cán cân dịch vụ thì trước hết tác giả sẽ giúp quý bạn đọc hiểu rõ hơn về cán cân dịch vụ thì quý bạn đọc sẽ cần phải hiểu rõ hơn về dịch vụ là gì? Do đó, để hiểu hơn về cán cân dịch vụ thì việc hiểu về dịch vụ là gì sẽ giúp ích rất nhiều trong việc hiểu và phan tích về định nghĩa của cán cân dịch vụ.
Do đó, dịch vụ trong thị trường kinh tế được biết đến với nội dung đó chính là một giao dịch trong đó không có hàng hóa vật chất nào được chuyển từ người bán sang người mua. Lợi ích của một dịch vụ như vậy được chứng minh bằng sự sẵn sàng trao đổi của người mua. Dịch vụ công là những dịch vụ mà xã hội (nhà nước quốc gia, liên minh tài chính hoặc khu vực) nói chung chi trả. Sử dụng các nguồn lực, kỹ năng, sự khéo léo và kinh nghiệm, nhà cung cấp dịch vụ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng dịch vụ. Dịch vụ có bản chất là vô hình. Dịch vụ có thể được định nghĩa là các hành vi hoặc sự biểu diễn mà theo đó nhà cung cấp dịch vụ cung cấp giá trị cho khách hàng. Theo nghĩa hẹp hơn, dịch vụ đề cập đến chất lượng dịch vụ khách hàng: mức độ thích hợp được đo lường của sự trợ giúp và hỗ trợ được cung cấp cho khách hàng. Việc sử dụng cụ thể này thường xuyên xảy ra trong bán lẻ.
Trong tiếng Anh thì cán cân dịch vụ được biết đến với tên gọi đó chính là Service balance
Cán cân dịch vụ được định nghĩa dưới góc độ kinh tế là dùng để phản ánh toàn bộ các khoản thu chi từ hoạt động dịch vụ trong thị trường kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia. Việc cân đối cán cân dịch vụ ở đây được xác định bao gồm các khoản thu, chi từ các hoạt động dịch vụ về vận tải, du lịch, bưu chính, viễn thông, bảo hiểm, hàng không, ngân hàng, thông tin, xây dựng và từ các hoạt động dịch vụ khác trên thị trường.
Người cư trú là các cá nhân và tổ chức thỏa mãn các điều kiện về cư trú mà pháp luật Việt Nam quy định tại Thông tư 111/2013/TT-BTC Hướng dẫn Luật thuế thu nhập cá nhân và Nghị định 65/2013/NĐ-CP do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành thì sẽ được coi là người cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Vì là các đối tượng chủ thể khác nhau nên điều kiện để được thừa nhận là người cư trú cũng khác nhau. Mà người lại thì những người không cư trú là người không sống trên lãnh thổ của Việt Nam và đồng thời cũng không đáp ứng đủ điều kiện để có thể sống trên lãnh thổ Việt Nam theo như quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Từ các định nghĩa được nêu ra ở trên thì có thể nhận định các đặc điểm của cán cân dịch vụ như sau:
– Thứ nhất, giống như xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh cung ngoại tệ nên được ghi Có với dấu (+); nhập khẩu dịch vụ làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi Nợ với dấu (–).
– Thứ hai, các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ cũng tương tự như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa tuy nhiên nhân tố quan trọng nhất tác động đến cán cân dịch vụ của các quốc gia là chất lượng dịch vụ.
– Thứ ba, cán cân dịch vụ này giải thích tại sao những nước đang phát triển với chất lượng dịch vụ thấp luôn là những nước nhập khẩu dịch vụ từ nước ngoài, và từ đó dẫn tới một thực trạng cán cân dịch vụ luôn thâm hụt ở những quốc gia này.
2. Các dịch vụ của cán cân dịch vụ:
Trong khi nền kinh tế thị trường ngày càng trở nên phát triển thì việc các dịch vụ phát triển cũng trở nên phát triển kèm theo để cân bằng thị trường trong nền kinh tế phát triển đó. Đối với các nước công nghiệp lớn thì tài khoản này đã thể hiện mức tăng trưởng nhanh nhất trong thập kỷ qua. Cụ thể các dịch vụ bao gồm:
– Dịch vụ vận tải: Vận tải hành khách, vận chuyển hàng hóa, thuê và cho thuê phương tiện vận chuyển… (Bao gồm vận tải đường bộ, đường thủy, đường không). Đồng thời thì dịch vụ vận tải còn được xác định đó chính là sự di chuyển của con người, động vật và hàng hóa từ địa điểm này đến địa điểm khác. Nói cách khác, hành động vận chuyển được định nghĩa là một chuyển động cụ thể của một sinh vật hoặc sự vật từ điểm A (một nơi trong không gian) đến điểm B. Các phương thức vận tải bao gồm đường hàng không, đường bộ (đường sắt và đường bộ), đường thủy, đường cáp, đường ống và không gian. Lĩnh vực này có thể được chia thành cơ sở hạ tầng, phương tiện và hoạt động. Giao thông vận tải cho phép giao thương giữa con người với nhau, điều cần thiết cho sự phát triển của các nền văn minh.
– Dịch vụ du lịch: Dịch vụ du lịch lữ hành, kinh doanh khách sạn, nhà hàng, khu du lịch sinh thái, các dịch vụ hướng dẫn du lịch… Ngoài ra thì dịch vụ du lịch còn có nghĩa là sắp xếp hoặc đặt các kỳ nghỉ hoặc các gói du lịch, đặt chỗ đi du lịch hoặc chỗ ở, đặt vé đi lại trong nước hoặc nước ngoài bằng đường hàng không, đường sắt, tàu thủy, xe buýt hoặc các phương tiện vận chuyển khác, khách sạn hoặc chỗ ở khác. Dịch vụ du lịch bao gồm các giải thưởng liên quan đến du lịch hoặc giải thưởng mà khách hàng phải trả phí hoặc, liên quan đến giải thưởng hoặc giải thưởng, chi tiền cho lợi ích tiền tệ trực tiếp hoặc gián tiếp của người trao giải thưởng, để khách hàng thu hoặc hưởng các quyền lợi của giải thưởng hoặc giải thưởng.
– Dịch vụ ngân hàng: Hoạt động này được quy định và thể hiện như thu chi từ tín dụng và bảo lãnh hay việc cho thuê tài chính, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ thanh toán quốc tế, các dịch vụ ngân hàng khác theo như quy định của pháp luật hiện hành…
– Dịch vụ bảo hiểm: Phản ánh các khoản thu chi từ dịch vụ bảo hiểm quốc tế, gồm các khoản phí bảo hiểm, phí tái bảo hiểm và các khoản chi bồi hoàn về bảo hiểm, chi bồi hoàn về tái bảo hiểm… Bảo hiểm là một phương tiện bảo vệ khỏi tổn thất tài chính. Đây là một hình thức quản lý rủi ro, chủ yếu được sử dụng để phòng ngừa rủi ro xảy ra tổn thất tiềm tàng hoặc không chắc chắn. Một pháp nhân cung cấp bảo hiểm được gọi là người bảo hiểm, công ty bảo hiểm, người vận chuyển bảo hiểm hoặc người bảo lãnh. Một người hoặc tổ chức mua bảo hiểm được gọi là chủ hợp đồng, trong khi một người hoặc tổ chức được bảo hiểm theo hợp đồng được gọi là người được bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm thường được sử dụng nhưng không nhất thiết phải là từ đồng nghĩa, vì phạm vi bảo hiểm đôi khi có thể mở rộng cho những người được bảo hiểm bổ sung đã không mua bảo hiểm.
– Dịch vụ bưu chính viễn thông: Bao gồm dịch vụ bưu chính (vận chuyển, phân phối, chuyển thư, ấn phẩm, bưu phẩm quốc tế…), dịch vụ viễn thông (điện thoại, điện tín, fax, internet, vệ tinh.. ) và các dịch vụ hỗ trợ khác. Các dịch vụ bưu chính vận chuyển thư và các gói hàng nhỏ đến các điểm đến trên thế giới, và họ hầu hết là các công ty đại chúng. Các dịch vụ viễn thông – sử dụng điện thoại, thông tin liên lạc vô tuyến và vi ba, cũng như cáp quang, vệ tinh và Internet – đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới.
Các cơ quan bưu chính cũng thường tham gia vào các lĩnh vực viễn thông, hậu cần, dịch vụ tài chính và các lĩnh vực kinh doanh khác. Hoạt động bưu chính bao gồm việc cung cấp các dịch vụ bưu chính trong nước và quốc tế – nhận, vận chuyển và chuyển phát thư, các dịch vụ gửi thư chuyên dụng, vận hành các cơ sở bưu chính và bán các vật tư bưu chính, philatelic và thư tín.