Theo như Porter lập luận rằng khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế của bất kỳ công ty nào chủ yếu dựa trên một tập hợp các lợi thế về vị trí có liên quan với nhau mà một số ngành ở các quốc gia khác nhau có được, đó là: chiến lược vững chắc, cơ cấu và đối thủ; điều kiện nhân tố; điều kiện cầu; và các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan.
Mục lục bài viết
1. Mô hình kim cương Porter là gì?
Trong tiếng Anh thì mô hình kim cương Porter được biết đến với tên gọi đó là Porter Diamond. Đồng thời thì Porter Diamond, được gọi đúng là Lý thuyết Porter Diamond về Lợi thế Quốc gia, là một mô hình được thiết kế để giúp hiểu lợi thế cạnh tranh mà các quốc gia hoặc nhóm sở hữu do các yếu tố nhất định sẵn có và để giải thích cách các chính phủ có thể hoạt động như chất xúc tác để nâng cao vị thế của một quốc gia trong môi trường kinh tế cạnh tranh toàn cầu.
Mô hình được tạo ra bởi Michael Porter, một cơ quan được công nhận về chiến lược doanh nghiệp và cạnh tranh kinh tế, đồng thời là người sáng lập Viện Chiến lược và Năng lực cạnh tranh tại Trường Kinh doanh Harvard. Đó là một lý thuyết kinh tế chủ động, chứ không phải là một lý thuyết chỉ đơn giản là định lượng các lợi thế cạnh tranh mà một quốc gia hoặc khu vực có thể có. Porter Diamond còn được gọi là “Porter’s Diamond” hoặc “Diamond Model”.
Mô hình Porter Diamond giải thích các yếu tố có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho thị trường hoặc nền kinh tế quốc gia này so với một thị trường hoặc nền kinh tế quốc gia khác.
Nó có thể được sử dụng cả để mô tả các nguồn lợi thế cạnh tranh của một quốc gia và con đường để đạt được lợi thế đó.
Mô hình này cũng có thể được các doanh nghiệp sử dụng để giúp định hướng và định hình chiến lược về cách tiếp cận đầu tư và hoạt động tại các thị trường quốc gia khác nhau.
2. Đặc điểm của mô hình kim cương Porter:
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra các đặc điểm của mô hình kim cương Porter như sau:
Thứ nhất, đối với mô hình kim cương Porter được biết đến dựa trên gợi ý rằng các quốc gia có thể tạo ra những lợi thế về nhân tố mới cho mình, chẳng hạn như một ngành công nghệ mạnh, lao động có tay nghề cao và sự hỗ trợ của chính phủ đối với nền kinh tế của một quốc gia. Hầu hết các lý thuyết truyền thống của kinh tế học toàn cầu khác nhau bằng cách đề cập đến các yếu tố, hoặc các yếu tố, mà một quốc gia hoặc khu vực vốn có, chẳng hạn như đất đai, vị trí, tài nguyên thiên nhiên, lao động và quy mô dân số là những yếu tố quyết định chính trong lợi thế kinh tế cạnh tranh của một quốc gia. Một ứng dụng khác của Porter Diamond là trong chiến lược doanh nghiệp, được sử dụng như một khuôn khổ để phân tích giá trị tương đối của việc đầu tư và hoạt động tại các thị trường quốc gia khác nhau.
Porter Diamond được thể hiện trực quan bằng một biểu đồ giống như bốn điểm của một viên kim cương. Bốn điểm đại diện cho bốn yếu tố quyết định có liên quan lẫn nhau mà Porter lý thuyết là yếu tố quyết định lợi thế kinh tế so sánh của quốc gia. Bốn yếu tố này là chiến lược, cấu trúc và sự cạnh tranh của doanh nghiệp; các ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan; điều kiện cầu; và điều kiện nhân tố. Về mặt nào đó, chúng cũng có thể được coi là tương tự như các lực lượng cùng tên trong mô hình chiến lược kinh doanh Năm Lực lượng của Porter.
Chiến lược, cấu trúc doanh nghiệp và sự cạnh tranh đề cập đến thực tế cơ bản là cạnh tranh dẫn đến việc các doanh nghiệp tìm cách tăng sản lượng và phát triển các đổi mới công nghệ. Sự tập trung sức mạnh thị trường, mức độ cạnh tranh và khả năng thâm nhập thị trường của các công ty đối thủ đều có ảnh hưởng ở đây. Điểm này liên quan đến lực lượng của các đối thủ cạnh tranh và các rào cản đối với những người mới gia nhập thị trường trong mô hình Năm Lực lượng.
Các ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan đề cập đến các ngành công nghiệp thượng nguồn và hạ nguồn tạo điều kiện cho đổi mới thông qua trao đổi ý tưởng. Những điều này có thể thúc đẩy đổi mới tùy thuộc vào mức độ minh bạch và chuyển giao kiến thức. Các ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan trong mô hình Kim cương tương ứng với các nhà cung cấp và khách hàng có thể đại diện cho các mối đe dọa hoặc cơ hội trong mô hình Năm Lực lượng. Điều kiện nhu cầu đề cập đến quy mô và tính chất của cơ sở khách hàng đối với sản phẩm, điều này cũng thúc đẩy sự đổi mới và cải tiến sản phẩm. Các thị trường tiêu dùng lớn hơn, năng động hơn sẽ tạo ra nhu cầu và kích thích nhu cầu khác biệt hóa và đổi mới, cũng như quy mô thị trường lớn hơn cho các doanh nghiệp.
3. Nội dung mô hình kim cương Porter:
Mô hình kim cương của Giáo sư Michael Porter phân tích các yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh đồng thời đánh giá một quốc gia hay vùng lãnh thổ có môi trường kinh doanh vi mô lành mạnh hay không. Mô hình đưa ra bốn nhân tố tác động qua lại lẫn nhau và quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia/vùng lãnh thổ đó là:
– Điều kiện đầu vào sẵn có: Điều kiện sẵn có của một môi trường kinh doanh bao gồm tính hiệu quả, chất lượng và sự chuyên môn hóa của các điều kiện sẵn có cho doanh nghiệp. Đông thời thì đối với các điều kiện này sẽ có tác động đến năng lực sáng tạo và năng suất lao động, bao gồm: vốn, con người, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng vật chất và hành chính, công nghệ thông tin. Các yếu tố này cần được kết hợp một cách đầy đủ để tạo sơ sở hình thành lợi thế cạnh tranh.
– Chiến lược cơ cấu và sự cạnh tranh của công ty: Các qui định, qui tắc, cơ chế khuyến khích và áp lực chi phối loại hình, mức độ cạnh tranh địa phương tạo ra những ảnh hưởng lớn tới chính sách thúc đẩy năng suất.
– Các điều kiện về nhu cầu: Nhu cầu thị trường ảnh hưởng tới qui mô và tăng trưởng thị trưởng đồng thời liên quan đến cả tính chất khách hàng. Nói chung là đối với môi trường kinh doanh lành mạnh sẽ có mức cầu cao từ các nhóm khách hàng địa phương phức tạp, do đó buộc các doanh nghiệp phải cung cấp hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao hơn mới có khả năng thành công.
– Các ngành hỗ trợ và có liên quan: Để có được sự thành công của môi trường kinh doanh vi mô cần có được số lượng lớn nhà cung cấp có năng lực tại địa phương và thay vì từng ngành công nghiệp riêng lẻ cần có các cụm ngành.
– bên cạnh đó thì cơ hội và chính phủ là hai yếu tố quyết định ảnh hưởng đến môi trường, có tác động gián tiếp đến bốn yếu tố chính.
Yếu tố quyết định cuối cùng, và là yếu tố quan trọng nhất theo lý thuyết của Porter, đó là các điều kiện của yếu tố. Điều kiện nhân tố là những yếu tố mà Porter tin rằng nền kinh tế của một quốc gia có thể tự tạo ra, chẳng hạn như nguồn lao động có tay nghề cao, đổi mới công nghệ, cơ sở hạ tầng và vốn. Ví dụ, Nhật Bản đã phát triển sự hiện diện kinh tế toàn cầu mang tính cạnh tranh vượt ra ngoài các nguồn lực vốn có của đất nước, một phần bằng cách sản xuất một số lượng rất cao kỹ sư đã giúp thúc đẩy đổi mới công nghệ của các ngành công nghiệp Nhật Bản. Porter cho rằng các yếu tố của điều kiện nhân tố quan trọng hơn trong việc xác định lợi thế cạnh tranh của một quốc gia hơn là các yếu tố kế thừa tự nhiên như đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Ông cũng gợi ý thêm rằng vai trò chính của chính phủ trong việc thúc đẩy nền kinh tế của một quốc gia là khuyến khích và thách thức các doanh nghiệp trong nước tập trung vào việc tạo ra và phát triển các yếu tố của điều kiện nhân tố. Một cách để chính phủ thực hiện mục tiêu đó là kích thích cạnh tranh giữa các công ty trong nước bằng cách thiết lập và thực thi luật chống tín nhiệm.