Trong thời buổi kinh tế thtrường ngày càng trở nên phát triển hơn thì vấn đề đo lường nửa độ lệch chuẩn là rất cần thiết. Vậy theo như quy định của pháp luật kinh tế trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đã có quy định về khái niệm nửa độ lệch chuẩn là gì? Đặc điểm và công thức tính Nửa độ lệch chuẩn có nội dung ra sao?
Mục lục bài viết
1. Nửa độ lệch chuẩn là gì?
Trước khi đi vào tìm hiểu các nội dung liên quan đến nửa độ lệch chuẩn là gì? Đặc điểm và công thức tính nửa độ lệch chuẩn được xác định như thế nào? Thì trước hết tác giả sẽ gửi đến quý bạn đọc nội dung về khái niệm của độ lệch chuẩn trong kinh tế với nội dung như sau:
Độ lệch chuẩn hay còn gọi với tên tiếng anh là Standard Deviation. Là đại lượng dùng để phản ánh độ phân tán của các giá trị trong bộ dữ liệu. Thể hiện sự biến thiên của giá trị trong một thời điểm phản ánh xu thế của sự thay đổi. Thông qua độ lệch chuẩn các nhà kinh tế, nhà quản lý có thể quan sát dự báo các thời kỳ biến động của nền kinh tế. Đối với các lĩnh vực khác cũng tương tự, độ lệch chuẩn luôn phân tích tính ổn định hoặc sự thay đổi cụ thể nào đó.
Có thể tính ra độ lệch chuẩn bằng cách lấy căn bậc hai của phương sai. Khi hai tập dữ liệu có cùng giá trị trung bình cộng, tập nào có độ lệch chuẩn lớn hơn là tập có dữ liệu biến thiên nhiều hơn. Trong trường hợp hai tập dữ liệu có giá trị trung bình cộng không bằng nhau, thì việc so sánh độ lệch chuẩn của chúng không có ý nghĩa. Độ lệch chuẩn còn được sử dụng khi tính sai số chuẩn. Khi lấy độ lệch chuẩn chia cho căn bậc hai của số lượng quan sát trong tập dữ liệu, sẽ có giá trị của sai số chuẩn.
Cũng giống như khái niệm về độ lệch chuẩn thì trong lĩnh vực kinh tế thì khái niệm và tên gọi nửa độ lệch chuẩn được gọi trong tiếng Anh với tên gọi là Semi-Deviation. Đồng thời thì khái niệm về nửa độ lệch chuẩn được biết đến dưới góc độ kinh tế là một phương pháp đo lường các biến động nằm dưới giá trị trung bình các mức lợi suất đầu tư. Đòng thời là một phép đo thay thế cho độ lệch chuẩn hoặc phương sai. Tuy nhiên, không giống như các biện pháp đó, bán lệch chỉ xem xét các biến động giá tiêu cực. Do đó, nửa độ lệch chuẩn thường được sử dụng nhiều nhất để đánh giá rủi ro giảm giá của một khoản đầu tư. Trong đầu tư, nửa độ lệch chuẩn được sử dụng để đo lường mức độ phân tán của giá tài sản so với giá trị trung bình hoặc giá trị mục tiêu được quan sát. Theo nghĩa này, phân tán có nghĩa là mức độ thay đổi so với giá trung bình.
Nửa độ lệch chuẩn đo tính biến động của giá trị mang tính thống kê. Nó cho thấy sự chênh lệch về giá trị của từng thời điểm đánh giá so với giá trị trung bình. Tính biến động cũng như độ lệch chuẩn sẽ cao hơn nếu giá đóng cửa và giá đóng cửa trên trung bình khác nhau đáng kể. Nếu sự chênh lệch không đáng kể thì độ lệch chuẩn và tính biến động ở mức thấp. Nửa độ lệch chuẩn cho biết hiệu suất đầu tư dự kiến trong trường hợp xấu nhất cho một khoản đầu tư rủi ro. Nửa độ lệch chuẩn là một phép đo thay thế cho độ lệch chuẩn hoặc phương sai. Nửa độ lệch chuẩn được xác định là một sự thay thế cho độ lệch chuẩn để đo lường mức độ rủi ro của tài sản.
Sự đảo chiều xu thế tạo các vùng đáy hoặc đỉnh của thị trường được xác định thời cơ bằng các mức độ biến động cao. Những xu thế mới của giá sau thời kỳ thoái trào của thị trường (tức là giai đoạn điều chỉnh) thường được xác định thời cơ bằng những mức độ biến động thấp. Sự thay đổi đáng kể về dữ liệu giá đem lại giá trị độ lệch chuẩn cao và dữ liệu giá ổn định hình thành độ lệch chuẩn ở mức thấp. Nửa độ lệch chuẩn chỉ đo lường các biến động dưới mức trung bình hoặc âm trong giá của một tài sản. Công cụ đo lường này thường được sử dụng nhất để đánh giá các khoản đầu tư rủi ro.
2. Đặc điểm Nửa độ lệch chuẩn:
Mục đích của bài viết này là xác định mức độ nghiêm trọng của rủi ro giảm giá của một khoản đầu tư. Sau đó, số nửa độ lệch chuẩn của tài sản có thể được so sánh với một số chuẩn, chẳng hạn như một chỉ số, để xem liệu nó có rủi ro nhiều hơn hay ít hơn so với các khoản đầu tư tiềm năng khác. Tuy nhiên, không giống như các đại lượng đó, nửa độ lệch chuẩn chỉ nhìn vào các biến động giá tiêu cực. Do đó, nửa độ lệch chuẩn thường được sử dụng để đánh giá rủi ro sụt giá của khoản đầu tư.
Trong đầu tư, nửa độ lệch chuẩn được sử dụng để đo lường độ phân tán của giá tài sản từ giá trị trung bình hoặc giá trị mục tiêu đã được quan sát. Theo nghĩa này, độ phân tán có nghĩa là mức độ biến đổi của giá từ mức giá trung bình. Harry Markowitz đã chứng minh cách khai thác các giá trị trung bình, phương sai và hiệp phương sai của phân phối lợi tức của các tài sản trong danh mục đầu tư để tính toán một biên giới hiệu quả mà trên đó mọi danh mục đầu tư đều đạt được lợi tức kỳ vọng cho một phương sai nhất định hoặc giảm thiểu phương sai để có được lợi tức kỳ vọng nhất định. Theo giải thích của Markowitz, một hàm tiện ích, xác định mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư đối với sự thay đổi của cải và rủi ro, được sử dụng để chọn một danh mục đầu tư thích hợp trên biên giới thống kê.
Mục đích của việc tính nửa độ lệch chuẩn là xác định mức độ nghiêm trọng mà rủi ro sụt giá của khoản đầu tư có thể có. Trong khi đó, A.D. Roy đã sử dụng nửa độ lệch chuẩn để xác định mức đánh đổi tối ưu của rủi ro để thu về lợi nhuận. Ông không tin rằng việc lập mô hình độ nhạy cảm với rủi ro của một con người với một chức năng tiện ích là khả thi. Thay vào đó, ông cho rằng các nhà đầu tư sẽ muốn khoản đầu tư có khả năng xảy ra dưới mức thảm họa nhỏ nhất. Hiểu được sự khôn ngoan của tuyên bố này, Markowitz nhận ra hai nguyên tắc rất quan trọng: Rủi ro giảm dần có liên quan đến bất kỳ nhà đầu tư nào và phân phối lợi nhuận có thể bị lệch hoặc không được phân phối đối xứng trong thực tế. Do đó, Markowitz đã khuyến nghị sử dụng thước đo biến thiên, mà ông gọi là phương sai, vì nó chỉ tính đến một tập hợp con của phân phối trả về.
Nửa độ lệch chuẩn của tài sản sau đó có thể được so sánh với các điểm chuẩn, chẳng hạn như các chỉ số thị trường, để xem liệu tài sản đó có rủi ro nhiều hay ít hơn so với các khoản đầu tư tiềm năng khác.
3. Công thức tính Nửa độ lệch chuẩn:
Công thức tính nửa độ lệch chuẩn là:
Trong đó:
– n là tổng số quan sát dưới giá trị trung bình.
– rt là giá trị quan sát thứ t.
– Average là giá trị trung bình hoặc giá trị đích của tập dữ liệu.
Toàn bộ danh mục đầu tư của một nhà đầu tư có thể được đánh giá theo nửa độ lệch chuẩn hiệu suất đầu tư của toàn bộ tài sản có trong nó.
Tài sản sau đó cho biết hiệu suất trong trường hợp xấu nhất có thể được dự kiến từ một danh mục đầu tư, so với các khoản lỗ trong một chỉ số hoặc bất cứ điểm chuẩn nào được chọn để so sánh.
Toàn bộ danh mục đầu tư của nhà đầu tư có thể được đánh giá theo nửa độ lệch chuẩn trong hoạt động của tài sản. Nói một cách thẳng thắn, điều này sẽ cho thấy hiệu suất trong trường hợp xấu nhất có thể mong đợi từ một danh mục đầu tư, so với mức thua lỗ trong một chỉ số hoặc bất kỳ thứ gì tương đương được chọn.