Phân tích bài thơ Cửu Long giang ta ơi của Nguyên Hồng cho thấy một tình yêu, niềm tự hào với quê hương, đất nước thông qua hình ảnh con sông Cửu Long. Bên cạnh đó, bài thơ cũng giúp cho người đọc hiểu được rõ nét hơn về dòng sông Cửu Long và con người Nam Bộ thông qua những hình ảnh độc đáo, ấn tượng.
Mục lục bài viết
1. Giới thiệu về bài thơ Cửu Long giang ta ơi của Nguyên Hồng:
1.1. Tổng quan bài thơ Cửu Long giang ta ơi:
Bài thơ Cửu Long giang ta ơi của tác giả Nguyên Hồng được trích trong tập Trời Xanh đăng trên NXB Văn học, Hà Nội năm 1960.
Nội dung bài thơ Cửu Long giang ta ơi như là một tiếng lòng khắc khoải, là một tiếng gọi, tiếng hát, là tình yêu, niềm tự hào về dòng sông Cửu Long. Cùng với đó là mong muốn đem đến người đọc những hiểu biết về con người Nam Bộ cũng như thể hiện được tình cảm của tác giả đối với dòng sông, con người, quê hương, đất nước, về nơi mà tác giả đã lớn lên.
1.2. Bố cục bài thơ:
Bài thơ Cửu Long giang ta ơi của Nguyên Hồng có thể được chia thành 2 phần:
– Phần 1 (Từ đầu đến …lòng dừa trĩu quả): Thể hiện vẻ đẹp của dòng sông Mê Kông
– Phần 2 (Còn lại): Người dân Nam Bộ gắn bó với dòng sông Mê Kông
1.3. Giá trị nội dung và nghệ thuật:
a, Giá trị nội dung:
Bài thơ được xây dựng bắt đầu với hình ảnh chật chội của lớp học. Sau đó đưa đến những hình ảnh rộng lớn của dòng sông Mê Kông – sông Cửu Long và hình ảnh những người dân Nam Bộ. Qua đó, tác giả mong muốn đem đến cho người đọc những hiểu biết về con người và dòng sông nơi đây, thể hiện tình cảm của chính tác giả đối với quê hương, xứ sở Việt Nam.
b, Giá trị nghệ thuật:
Bài thơ Cửu Long giang ta ơi của Nguyên Hồng được sáng tác trên thể thơ tự do với kết cấu đặc biệt. Bên cạnh đó, tác giả thành công với việc sử dụng nhiều biện pháp tu từ ấn tượng như: So sánh, ẩn dụ, điệp từ,… để làm tôn lên vẻ đẹp sông Cửu Long và miêu tả rõ nét về người dân Nam Bộ, giúp người đọc hiểu biết hơn về con người và dòng sông quê hương.
2. Dàn ý phân tích bài thơ Cửu Long giang ta ơi của Nguyên Hồng:
Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả (quê quán, năm sinh, năm mất, sự nghiệp nổi bật)
Dẫn dắt giới thiệu về tác phẩm bài thơ Cửu Long giang ta ơi
Thân bài:
Luận điểm 1: Phân tích hình ảnh lớp học ở đầu và cuối bài thơ
Luận cứ 1: Đầu tiên là hình ảnh lớp học ở đầu bài thơ phân tích về hình ảnh nhân vật ta và nhân vật thầy giáo:
Mở đầu bài thơ, hình ảnh lớp học được phân tích cùng với nhân vật và người thầy.
Nhân vật “tôi” là một học sinh 10 tuổi. Bài thơ miêu tả sự phấn khích, khao khát khám phá của học sinh bằng hành động “Nâng tầm mắt nhìn bản đồ rực rỡ/Như cánh đồng hoa chợt gặp đêm mộng”. Ngoài ra, biểu cảm trái tim “Tim tôi đập mạnh đến mức không hiểu nổi” truyền tải cảm giác choáng ngợp trước sự bao la của dòng sông Mê Kông.
– Câu thơ “Thầy giáo lớn sao, thước bảng cũng lớn sao/ Gậy thần tiên và cánh tay đạo sĩ” mô tả việc thầy được học trò quý trọng. Bài thơ miêu tả người thầy như một nhân vật vĩ đại và quan trọng, việc sử dụng quyền trượng thần tiên và hình ảnh cánh tay Đạo giáo càng làm tăng thêm hình ảnh vĩ đại này.
– Câu thơ “Đưa ta đi sông núi tuyệt vời” truyền tải ý tưởng người thầy đã giúp học sinh học được những bài học cuộc sống quý giá. Nó gợi ý rằng giáo viên là người hướng dẫn học sinh, dẫn dắt các em khám phá vẻ đẹp và trí tuệ của thế giới xung quanh.
Luận cứ 2: Phân tích hình ảnh lớp học ở cuối bài thơ:
Nhân vật “ta” đã trưởng thành còn người thầy thì đã khuất, đã mất vì hy sinh cho độc lập dân tộc: “thước bảng to nay thành cán cờ sao”.
Luận điểm 2. Phân tích hình ảnh sông Mê Kông (sông Cửu Long) qua bài giảng của thầy giáo, vừa dữ dội lại êm đềm đến lạ.
– Sự dữ dội ấy được miêu tả qua các hình ảnh:
Thời gian diễn tả: Trưa hè ngun ngút
Cảnh vật quanh sông: Cây lao đá đổ, quanh sông được bao bọc bởi các loại cây như lan hoang, dứa mật, thông nhựa.
Hình ảnh dòng sông chảy qua dãy Trường Sơn, thác Khôn.
– Dòng sông ấy êm đềm qua các miêu tả:
– Thời gian: Sáng mùa thu
– Cảnh vật quanh sông được miêu tả hiền hòa: Có bướm với trời xanh, chim khuyên rỉa cành, sương đọng long lanh, rừng núi lùi xa, đất phẳng thở chan hòa, sóng tỏa chân trời buồm trắng.
– Miêu tả dòng sông Mê Kông: Mê Kông chảy, Mê Kông cũng hát/ Chín nhánh Mê Kông phù sa nổi váng/ Ruộng bãi Mê Kông trồng không hết lúa/ Bến nước Mê Kông tôm cá ngợp thuyền/ Mê Kông quặn đẻ/ Chín nhánh sông vàng. Đó là một con sông cung cấp phù sa màu mỡ cho đất đai, ruộng đồng.
Luận điểm 3. Phân tích hình ảnh dòng sông gắn bó với con người Nam Bộ
– Vai trò của dòng sông Mê Kông (sông Cửu Long) với người dân Nam Bộ:
– Đó là cội nguồn cung cấp phù sa cho đất màu mỡ để trồng lúa: Ruộng bãi trồng không hết lúa.
– Dòng sông cung cấp cho người dân một lượng hải sản, thủy sản lớn: Bến nước tôm cá ngợp thuyền.
– Không chỉ vậy, dòng sông Mê Kông còn cung cấp đất trồng, tưới tiêu để mang đến cho người dân những cây ăn quả sai trĩu: Sầu riêng thơm dậy và dừa trĩu quả.
– Miêu tả hình ảnh của người dân Nam Bộ:
– Đó là những con người chăm chỉ, không quản sương gió: Gối đất nằm sương, mồ hôi và bãi lầy thành đồng lúa.
– Họ đã gắn bó với từng mảnh đất này: Thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa… Cà Mau.
– Hình ảnh con người gắn bó với mảnh đất bao đời: Ông cha đã hy sinh để giữ đất giữ nước cho con cháu: Những mặt đất… chia cắt.
=> Sông Mê Kông (sông Cửu Long) là người bạn, là quê hương, nó gắn bó, có những đóng góp to lớn cho cuộc sống của con người nơi đây.
Kết bài:
Chốt lại vấn đề, khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Cửu Long giang ta ơi.
3. Bài mẫu phân tích bài thơ Cửu Long giang ta ơi của Nguyên Hồng:
Nguyên Hồng là một trong những tác giả chuyên viết cả văn xuôi lẫn sáng tác thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Những tác phẩm của ông đều mang lại những giá trị độc đáo cả về nội dung lẫn nghệ thuật, đóng góp một phần trong kho tàng văn học nước nhà. Một trong số đó không thể không kể đến bài thơ “Cửu Long giang ta ơi”.
Ngay từ nhan đề bài thơ đã cho ta thấy những ấn tượng mạnh mẽ. Nó như một tiếng gọi khắc khoải, một tiếng hát, tiếng lòng xuất phát từ tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dành cho con sông quê hương.
Dòng sông Cửu Long đến với cậu học trò mười tuổi qua lời giảng của người thầy. Từ nơi bản đồ kỳ diệu, cậu bé bắt gặp dòng sông mênh mông:
“Ngày xưa ta đi học
Mười tuổi thơ nghe gió thổi mùa thu
Mắt ngẩng lên trông bản đồ rực rỡ
Như đồng hoa bỗng gặp một đêm mơ.
Bản đồ mới tường vôi cũng mới
Thầy giáo lớn sao, thước bảng cũng lớn sao
Gậy thần tiên và cánh tay đạo sĩ
Đưa ta đi sông núi tuyệt vời”
Dòng sông Cửu Long được hiện lên với vẻ đẹp sống động và kỳ vĩ có những từ ngữ khắc họa hình ảnh chân thực của nhà thơ: “cây lao lá đổ”, “tan hoang dứa mật”:
“Mê Kông chảy
Cây lao đá đổ
Ngẫm nghĩ voi đi
Thác Khôn cười trắng xoá
Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương
Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn…”
Không chỉ có vẻ đẹp kỳ vĩ, không dừng lại ở sự dữ dội mà dòng sông ấy còn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình:
“Ta đi… bản đồ không còn nhìn nữa…
Sáng trời thu lại còn bướm với trời xanh
Trúc đào tươi chim khuyên rỉa cánh sương đọng long lanh”
Dòng sông được nhân hóa thể hiện niềm tự hào của con người với thiên nhiên, xứ sở qua những tiếng hát, với âm thanh ca ngợi tự hào:
“Ta cởi áo lội dòng sông ta hát
Mê Kông chảy Mê Kông cũng hát”
Đặc biệt nhất có lẽ chính là hình ảnh con sông Cửu Long được nhân hóa mang hơi thở của một người mẹ đã quặn đau và sinh ra “chín nhánh sông vàng”. Dòng sông ấy không chỉ giúp ích cho cuộc sống của người dân Nam Bộ trong lao động, sản xuất mà còn hỗ trợ đời sống người dân rất nhiều trong cuộc sống hằng ngày.
“Mê Kông quặn đẻ
Chín nhánh sông vàng
Nông dân Nam Bộ gối đất nằm sương
Mồ hôi vã bãi lau thành đồng lúa
Thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa…”
Đến cuối bài thơ, hình ảnh nhân vật ta và người thầy giáo năm ấy lại xuất hiện. Tuy nhiên, không còn là cậu học sinh 10 tuổi, nhân vật “ta” đã trưởng thành, còn người thầy năm ấy cũng đã khuất. Những “thước bảng to nay thành cán cờ sao” cho thấy được sự hy sinh cho nền độc lập của dân tộc.
Bài thơ “Cửu Long giang ta ơi” đã thể hiện tình yêu dành cho dòng sông Cửu Long (sông Mê Kông). Đó cũng là thể hiện của tình yêu với quê hương, đất nước của tác giả giống như mạch ngầm, thấm vào máu thịt theo thời gian.