Bộ máy Nhà nước và các vị Vua Triều đại nhà Lý (1010 - 1225) đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Trong thời kỳ này, bộ máy Nhà nước đã được hoàn thiện và tổ chức chặt chẽ hơn, đảm bảo sự phát triển ổn định của đất nước. Với sự thống trị của các vị vua triều đại nhà Lý, Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng cho văn hóa, kinh tế và chính trị của Đông Nam Á.
Mục lục bài viết
- 1 1. Các vị Vua Triều đại nhà Lý (1010 – 1225):
- 1.1 1.1. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn 1010 – 1028):
- 1.2 1.2. Lý Thái Tông (Lý Phật Mã 1028 – 1054):
- 1.3 1.3. Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn 1054 – 1072):
- 1.4 1.4. Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức 1072 – 1128):
- 1.5 1.5. Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán 1128 – 1138):
- 1.6 1.6. Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ 1138 – 1175):
- 1.7 1.7. Lý Cao Tông (Lý Long Cán 1176 – 1210):
- 1.8 1.8. Lý Huệ Tông (Lý Hạo Sảm 1211 – 1224):
- 1.9 1.9. Lý Chiêu Hoàng (Phật Kim 1224 – 1225):
- 2 2. Văn hóa thời nhà Lý:
- 3 3. Bộ máy nhà nước thời nhà Lý:
- 4 4. Giáo dục và văn hóa nhà Lý:
1. Các vị Vua Triều đại nhà Lý (1010 – 1225):
1.1. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn 1010 – 1028):
Lý Công Uẩn sinh năm 974, được nuôi dạy bởi nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh. Sau khi trở thành người xuất chúng, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế và đóng đô tại Hoa Lư. Vào tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La và đặt tên là Kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay). Vua Thái Tổ trị vì 18 năm và qua đời ở tuổi 55.
1.2. Lý Thái Tông (Lý Phật Mã 1028 – 1054):
Vua Lý Thái Tổ sinh nhiều hoàng tử và khi ông qua đời, các hoàng tử tranh ngôi vua. Cuối cùng, Thái tử Phật Mã lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Lý Thái Tông. Vua Thái Tông là người có trí, biết trước mọi việc và đã đánh tan quân Chiêm Thành. Khi làm vua, Người mở mang bờ cõi, xây dựng lực lượng để bảo vệ đất nước, đoàn kết với các dân tộc ít người. Vua qua đời ở tuổi 55.
1.3. Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn 1054 – 1072):
Lý Thánh Tông, tên gọi khác của Nhật Tôn, sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023). Ông là con của bà Kim Thiên Thái Hậu họ Mai. Ông đã thực hiện nhiều việc tốt, bao gồm thương dân, trọng việc làm ruộng, hỗ trợ người bị hình, tìm kiếm và giúp đỡ những người xa xứ. Ngoài ra, ông còn tạo điều kiện cho các bác sĩ, cải cách việc làm văn phòng, giữ gìn bình đẳng và tôn trọng lễ nghi, phát triển võ thuật và duy trì sự yên tĩnh trong nước. Tuy nhiên, việc xây dựng Tháp Báo Thiên và cung Đâm Đàm đã lãng phí quá nhiều nguồn lực của dân.
Lý Thánh Tông qua đời năm Nhâm Tý (1072), sau 18 năm trị vì, thọ 50 tuổi.
1.4. Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức 1072 – 1128):
Lý Nhân Tông, hay còn gọi là Thái tử Càn Đức, là con trai đầu lòng của Lý Thánh Tông và bà Nguyên phi Ỷ Lan, sau này là Thái hậu Linh Nhân. Ông sinh vào ngày 25 tháng 1 năm Bính Ngọ (1066), chỉ mới 6 tuổi khi lên ngôi Hoàng đế sau khi cha mất. Hoàng Thái hậu Ỷ Lan phải từ bỏ quyền lực nhiếp chính.
Vào năm 1075, trong thời gian của Tống Thần Tông, Vương An Thạch đã lên kế hoạch xâm lược nước ta. Tuy nhiên, Thái úy Lý Thường Kiệt đã phá hủy các căn cứ lương thực, vũ khí của địch ở Châu Khâm, Châu Liêm và Châu Ung (Quảng Đông, Quảng Tây) rồi đánh phản công để chặn giặc.
Vào đầu năm 1077, Quách Quỳ và Triệu Tiết đã dẫn 10 vạn quân và 1 vạn ngựa chiến sang xâm lược nước ta, nhưng bị chặn lại bên bờ bắc sông Cầu hơn 2 tháng. Quân ta đã đánh du kích và làm suy yếu địch rất nhiều, khiến giặc hoang mang và dao động “tiến thoái lưỡng nan”.
Trên phòng tuyến sông Cầu, Lý Thường Kiệt đã thổi sáo và đọc bài thơ của mình:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư, Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Đây chính là “Bản tuyên ngôn độc lập” lần đầu tiên của Tổ quốc ta. Quân ta đã tổ chức phản công và đánh đuổi quân Tống.
Quân Tống khiếp sợ và phải rút chạy về nước. Độc lập của Tổ quốc ta được bảo vệ.
Năm Đinh Mùi (1127), Lý Nhân Tông qua đời sau 56 năm trị vì, thọ 62 tuổi.
1.5. Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán 1128 – 1138):
Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của em trai là Sùng Hiền Hầu Dương Hoán lên làm Thái tử, kế vị Hoàng đế là vua Lý Thần Tông.
Vua Lý Thần Tông khuyến khích phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, giúp nhân dân có đủ, an cư lạc nghiệp.
Lý Thần Tông mất năm Mậu Ngọ (1138), trị vì 10 năm, thọ 23 tuổi.
1.6. Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ 1138 – 1175):
Lý Thiên Tộ là con trưởng của Lý Thần Tông, lên ngôi Hoàng đế khi mới 3 tuổi. Nhờ trung thần như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín giữ vững cơ đồ nhà Lý.
Lý Anh Tông mất năm Ất Mùi (1175), trị vì 37 năm, thọ 40 tuổi.
1.7. Lý Cao Tông (Lý Long Cán 1176 – 1210):
Lý Cao Tông, con trai của Lý Anh Tông, lên ngôi vua khi mới dưới 3 tuổi. Với tình trạng chính sự hình pháp không rõ ràng, cơ nghiệp nhà Lý suy đồi.
Năm Bính Thìn (1208) có loạn Quách Bốc, vua Cao Tông đem gia quyến chạy lên vùng Tam Nông (Vĩnh Phú). Anh em nhà Trần giúp Thái tử Sảm khôi phục kinh đô Thăng Long rồi lên Tam Nông rước Cao Tông về kinh đô.
Cao Tông mất năm Canh Ngọ (1210), trị vì được 34 năm, thọ 38 tuổi.
1.8. Lý Huệ Tông (Lý Hạo Sảm 1211 – 1224):
Lý Huệ Tông lên ngôi Hoàng đế sau khi cha mất, lúc đó mới 13 tuổi. Vua thường rượu chè say khướt suốt ngày, bỏ bê triều chính, cơ nghiệp nhà Lý tiếp tục suy thoái.
Đến tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông truyền ngôi cho công chúa Chiêu Thánh rồi đi tu ở chùa Chân Giáo.
Lý Huệ Tông trị vì được 13 năm, sau bị Trần Thủ Độ ép tự tử, thọ 33 tuổi.
1.9. Lý Chiêu Hoàng (Phật Kim 1224 – 1225):
Trần Thủ Độ ép Lý Huệ Tông đi tu, nhường ngôi vua cho con gái là công chúa Chiêu Thánh (lúc đó mới 7 tuổi) niên hiệu Lý Chiêu Hoàng. Trần Thủ Độ giành quyền binh.
Trần Cảnh, con trai ông Trần Thừa, được đưa vào cung phụng vụ Lý Chiêu Hoàng.
Trần Cảnh được Chiêu Hoàng yêu quý, thường hay trêu đùa. Trần Thủ Độ tung tin là Lý Chiêu Hoàng đã lấy chồng là Trần Cảnh.
Lý Chiêu Hoàng tổ chức hội lớn ở điện Thiên An, cởi hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, từ đó khởi đầu triều đại nhà Trần.
2. Văn hóa thời nhà Lý:
Trong thời kỳ nhà Lý, quan vua là bộ phận chủ yếu trong giai cấp thống trị. Một số hoàng tử, công chúa, quan lại được phong cấp ruộng đất trở thành điểu chủ. Một số ít dân thường, do có nhiều ruộng, cũng trở thành điểu chủ có thể lực tại địa phương.
Nông dân chiếm đa số trong dân cư và là lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội. Các định nam được chia ruộng theo tập tục của làng xã và phải làm nghĩa vụ cho nhà nước. Những nông dân nghèo phải cày ruộng, nộp thuế cho điểu chủ, có người phải rời bỏ quê hương đi khai hoang, lập nghiệp ở nơi khác.
Ngoài ra, trong xã hội còn có người làm nghề thủ công, buôn bán. Họ sống ra rạc ở các làng, rèn công cụ, sản xuất các đồ dùng cần thiết hàng ngày và trao đổi cho nhau. Họ phải nộp thuế và làm nghĩa vụ với nhà vua.
Nô tì vốn là tù binh hoặc bị tội nặng, nợ nần hoặc tự bán thân, phải phục vụ trong cung điện hoặc các nhà quan.
3. Bộ máy nhà nước thời nhà Lý:
4. Giáo dục và văn hóa nhà Lý:
Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng ở Thăng Long nhằm mục đích thờ Khổng Tử. Điều này đánh dấu sự khai sinh của một trung tâm văn hóa lớn mới tại khu vực này. Những năm tiếp đó, Văn Miếu được sử dụng như một trường học dành cho các con vua.
Năm 1075, khoa thi đầu tiên được mở để tuyển chọn quan lại. Năm 1076, Quốc tử giám được thành lập dựa trên cơ sở được mở cho con em quý tộc đến học. Điều này có thể xem là trường đại học đầu tiên của quốc gia Đại Việt. Sau đó, nhà Lý mở rộng cho con em quan lại và những người giỏi trong nước vào đây học tập, tổ chức thêm một số kì thi.
Nhà Lý đã quan tâm đến giáo dục và phát triển hệ thống thi cử. Khoa cử được mở khi nhà nước có nhu cầu, chưa có nền nếp, quy củ cứng nhắt. Trong thời kỳ này, văn học chữ Hán được khởi đầu phát triển.
Hầu hết các vua nhà Lý như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông đều sùng đạo Phật, trở thành những vua ân cần xây dựng chùa tháp, tô tượng, đúc chuông, dịch kinh Phật và soạn sách Phật.
Lý Công Uẩn mới lên ngôi đã phát hai vạn quan tiền để xây dựng 8 ngôi chùa ở quê mình, lại phát hàng vạn quan dựng nhiều chùa ở kinh đô, sửa sang chùa quán ở các lộ và cho phép hơn 1000 người ở Thăng Long làm sư.
Từ thời Lý, nhân dân đã thích ca hát, nhảy múa. Hát chèo, múa rối nước được phát triển và trở thành những thể loại nghệ thuật phổ biến. Ngoài ra, các trò chơi dân gian như đá cầu, vật, đua thuyền cũng rất được yêu thích. Mùa xuân là thời điểm mà khắp nơi đều mở hội.
Phong cách kiến trúc và điêu khắc đa dạng, độc đáo của nhà Lý đã đem lại nhiều công trình mang tính cách độc đáo và có quy mô tương đối lớn. Trong Hoàng thành có những tòa nhà cao 4 tầng. Tháp Báo Thiên ở Thăng Long cao 12 tầng. Chùa Một Cột được dựng trên một cột đá lớn, đứng giữa hồ, tượng trưng cho một bông sen nơi trên mặt nước.
Trong thời kỳ này, một số công trình nghệ thuật có giá trị khác cũng được xây dựng. Tháp Chương Sơn (Nam Định), chuông chùa Trùng Quang (Bắc Ninh) nặng 3 tấn, v…v…
Trình độ điêu khác tinh vi, thanh thoát được thể hiện trên các tượng Phật, ở các hình trang trí rồng, các bệ đá hình hoa sen. Rồng mình trơn toàn thân uốn khúc, uyển chuyển như một ngọn lửa là hình tượng nghệ thuật độc đáo và phổ biến ở thời Lý.
Phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo của nhân dân ta thời nhà Lý đã đánh dấu sự ra đời của một nền văn hóa riêng biệt của dân tộc – văn hóa Thăng Long. Sự phát triển đó đã đem lại cho khu vực Thăng Long một vận hóa phong phú, đa dạng và độc đáo, đã có đóng góp quan trọng vào việc xây dựng danh tiếng và nổi tiếng của Thăng Long, ngay cả sau này, khi khu vực này đã được đổi tên thành Hà Nội.