Đánh giá học sinh khuyết tật là một quá trình quan trọng để đảm bảo rằng các em được hỗ trợ và đưa ra những giải pháp phù hợp. Thông tư số 27/2023/TT-BGDĐT mới nhất về đánh giá học sinh khuyết tật đã được ban hành với nhiều điểm mới được cập nhật và bổ sung. Thông tư này yêu cầu các trường học phải thực hiện việc đánh giá học sinh khuyết tật đầy đủ và chính xác, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh khuyết tật để được học tập và phát triển tốt nhất có thể.
Mục lục bài viết
- 1 1. Đánh giá học sinh khuyết tật theo thông tư 27/2020/TT-BGDĐT:
- 2 2. Lộ trình đánh giá học sinh tiểu học:
- 3 3. Giáo viên tiểu học được chấm 0 điểm bài kiểm tra:
- 4 4. Đề kiểm tra của học sinh tiểu học chỉ còn 03 mức độ:
- 5 5. Giáo viên sử dụng linh hoạt, phù hợp các phương pháp đánh giá:
- 6 6. Vai trò của phụ huynh trong đánh giá thường xuyên:
- 7 7. Một số thay đổi khác trong đánh giá định kỳ:
1. Đánh giá học sinh khuyết tật theo thông tư 27/2020/TT-BGDĐT:
Điều 8. Đánh giá học sinh ở trường, lớp dành cho người khuyết tật
Học sinh khuyết tật học theo phương thức giáo dục hoà nhập tùy theo dạng khuyết tật và mức độ khuyết tật. Giáo viên sẽ áp dụng những phương pháp giảng dạy và đánh giá phù hợp với từng học sinh, đồng thời điều chỉnh yêu cầu cho phù hợp với dạng khuyết tật và mức độ khuyết tật hoặc theo yêu cầu của kế hoạch giáo dục cá nhân. Việc điều chỉnh này giúp cho học sinh khuyết tật có thể học tập và phát triển tốt hơn trong môi trường giáo dục.
Ngoài phương thức giáo dục hoà nhập, học sinh khuyết tật cũng có thể chọn phương thức giáo dục chuyên biệt. Đối với học sinh học theo phương thức này, giáo viên sẽ đánh giá theo quy định dành cho giáo dục chuyên biệt hoặc theo yêu cầu của kế hoạch giáo dục cá nhân. Phương thức này sẽ phù hợp với những học sinh có dạng khuyết tật và mức độ khuyết tật đặc biệt, giúp cho việc học tập của học sinh trở nên hiệu quả hơn.
Học sinh học tại các lớp dành cho người khuyết tật sẽ được đánh giá căn cứ vào nhận xét và đánh giá thường xuyên của giáo viên trong các buổi học tại lớp. Ngoài ra, kết quả đánh giá định kỳ môn Toán, môn Tiếng Việt sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 7 của Quy định này. Việc đánh giá thường xuyên này giúp cho giáo viên có thể theo dõi và hỗ trợ học sinh trong quá trình học tập, đồng thời giúp cho học sinh có thể đạt được những kết quả tốt hơn trong học tập.
2. Lộ trình đánh giá học sinh tiểu học:
Theo đó, quy định đánh giá học sinh tiểu học được thực hiện theo lộ trình như sau:
– Từ năm học 2020-2021 đối với lớp 1. Học sinh lớp 1 sẽ được đánh giá theo hình thức đánh giá định kỳ, bao gồm 2 đợt đánh giá trong năm học.
– Từ năm học 2021-2022 đối với lớp 2. Lớp 2 sẽ có 3 đợt đánh giá trong năm học, trong đó, đợt đánh giá đầu tiên được tiến hành vào cuối học kỳ 1, đợt đánh giá thứ hai sẽ được tiến hành vào đầu học kỳ 2 và đợt đánh giá cuối cùng được tiến hành vào cuối năm học.
– Từ năm học 2022-2023 đối với lớp 3. Học sinh lớp 3 sẽ có 4 đợt đánh giá trong năm học, bao gồm 2 đợt đánh giá trong học kỳ 1 và 2 đợt đánh giá trong học kỳ 2.
– Từ năm học 2023-2024 đối với lớp 4. Lớp 4 sẽ có 5 đợt đánh giá trong năm học, bao gồm 2 đợt đánh giá trong học kỳ 1 và 3 đợt đánh giá trong học kỳ 2. Ngoài ra, học sinh lớp 4 sẽ tham gia kỳ thi giữa năm để đánh giá kết quả học tập của mình.
– Từ năm học 2024-2025 đối với lớp 5. Học sinh lớp 5 sẽ có 6 đợt đánh giá trong năm học, bao gồm 3 đợt đánh giá trong học kỳ 1 và 3 đợt đánh giá trong học kỳ 2. Ngoài ra, học sinh lớp 5 cũng sẽ tham gia kỳ thi cuối năm để đánh giá kết quả học tập của mình.
Lưu ý:
Quy định đánh giá học sinh tiểu học tại Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT và Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT được áp dụng đến khi các quy định tại Điều 2 Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT được thực hiện.
3. Giáo viên tiểu học được chấm 0 điểm bài kiểm tra:
Cụ thể, trong đánh giá định kỳ, bài kiểm tra được giáo viên sửa lỗi, nhận xét, cho điểm theo thang điểm 10, không cho điểm thập phân và được trả lại cho học sinh. Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT đã bỏ quy định “không cho điểm 0” đối với bài kiểm tra của học sinh tiểu học. Tuy nhiên, việc này không có nghĩa là học sinh không thể nhận điểm thấp. Thay vì điểm 0, giáo viên có thể cho điểm thấp nhất là 1 điểm. Điều này giúp tránh tình trạng học sinh không làm bài hoặc làm bài không đúng.
Hơn nữa, Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT cũng đưa ra quy định mới về việc giáo viên phải đánh giá năng lực của học sinh theo từng tiêu chí khác nhau. Cụ thể, giáo viên sẽ đánh giá năng lực của học sinh trong các lĩnh vực như kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi và thành tích học tập. Điều này giúp đánh giá toàn diện hơn về năng lực của học sinh, giúp học sinh được phát triển đầy đủ các khả năng của mình.
Với những quy định mới này, việc đánh giá năng lực của học sinh được thực hiện một cách chính xác và công bằng hơn, giúp đảm bảo quyền lợi của học sinh và giáo viên trong quá trình giảng dạy và học tập.
4. Đề kiểm tra của học sinh tiểu học chỉ còn 03 mức độ:
Trong đó, quy định đề kiểm tra định kỳ của học sinh tiểu học được thiết kế phù hợp với yêu cầu cần đạt và các biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học. Để đáp ứng các yêu cầu đó, quy định này sẽ bao gồm một số câu hỏi và bài tập theo các mức khác nhau, bao gồm:
Mức 1: Học sinh được yêu cầu nhận biết, nhắc lại hoặc mô tả được nội dung đã học và áp dụng trực tiếp để giải quyết một số tình huống, vấn đề quen thuộc trong học tập. Mức độ này sẽ giúp học sinh phát triển năng lực nhận biết và áp dụng kiến thức một cách hiệu quả.
Mức 2: Học sinh sẽ được yêu cầu kết nối và sắp xếp các nội dung đã học để giải quyết vấn đề có nội dung tương tự. Mức độ này sẽ giúp học sinh phát triển kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin một cách chính xác và logic.
Mức 3: Học sinh được yêu cầu vận dụng các nội dung đã học để giải quyết một số vấn đề mới hoặc đưa ra những phản hồi hợp lý trong học tập và cuộc sống. Mức độ này sẽ giúp học sinh phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo và khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp.
Như vậy, với quy định mới này, sẽ có 03 mức độ đề kiểm tra định kỳ thay vì 4 mức độ như hiện hành tại Thông tư 22/2016. Tuy nhiên, việc thiết kế các câu hỏi và bài tập theo các mức khác nhau sẽ giúp hệ thống đánh giá trở nên chi tiết và đầy đủ hơn, từ đó giúp học sinh phát triển các năng lực khác nhau một cách toàn diện hơn.
5. Giáo viên sử dụng linh hoạt, phù hợp các phương pháp đánh giá:
Trong quá trình đánh giá, giáo viên còn đưa ra lời khuyên và hướng dẫn cho học sinh cách cải thiện kết quả học tập và phát triển phẩm chất, năng lực của mình. Để đảm bảo tính khách quan của quá trình đánh giá, giáo viên sử dụng các tiêu chí đánh giá được xây dựng từ trước và được thông báo rõ ràng cho học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên còn sử dụng các phương tiện đánh giá khác nhau như bài kiểm tra, đồ án, thuyết trình, trắc nghiệm, v.v. để đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Ngoài ra, giáo viên cũng quan tâm đến việc đánh giá và phản hồi cho phụ huynh về quá trình học tập của học sinh. Giáo viên sẽ cung cấp thông tin về tiến độ học tập, kết quả đánh giá và các vấn đề liên quan đến hành vi và thái độ của học sinh trong lớp học.
Để đảm bảo tính minh bạch và công khai trong quá trình đánh giá, giáo viên cũng thường xuyên gặp gỡ và trao đổi với phụ huynh về các vấn đề liên quan đến học tập của học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên cũng sử dụng các công cụ và phần mềm hỗ trợ đánh giá để thu thập thông tin và phân tích kết quả học tập của học sinh một cách toàn diện và chính xác.
Từ đó, giáo viên có thể đánh giá và đưa ra những quyết định phù hợp để giúp học sinh phát triển tối đa năng lực và phẩm chất của mình.
6. Vai trò của phụ huynh trong đánh giá thường xuyên:
– Về nội dung học tập các môn học, hoạt động giáo dục:
Cha mẹ học sinh có thể trao đổi với giáo viên về những điểm mạnh, điểm yếu của con em mình trong học tập. Họ có thể yêu cầu giáo viên đánh giá con em mình bằng các hình thức phù hợp, từ đó cùng nhau đưa ra các giải pháp để giúp con em mình tiến bộ hơn trong học tập. Bên cạnh đó, cha mẹ cũng có thể phối hợp với giáo viên để động viên và giúp đỡ con em mình trong quá trình học tập và rèn luyện kỹ năng.
– Về sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực:
Cha mẹ học sinh có thể trao đổi với giáo viên về các phẩm chất cần phát triển cho con em mình, từ đó cùng nhau tìm kiếm các cách rèn luyện và phát triển những phẩm chất đó. Cha mẹ có thể phối hợp với giáo viên để động viên và giúp đỡ con em mình trong việc rèn luyện và phát triển các kỹ năng cốt lõi như tự tin, sáng tạo, giao tiếp, và nhiều hơn nữa. (Thông tư 22/2016 quy định khuyến khích cha mẹ học sinh trao đổi với giáo viên).
7. Một số thay đổi khác trong đánh giá định kỳ:
Thông tin về quá trình đánh giá thường xuyên của học sinh được cập nhật trong Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT. Theo đó, giáo viên dạy từng môn học hoặc hoạt động giáo dục sẽ căn cứ vào các yêu cầu cần đạt và các thành phần năng lực cụ thể để đánh giá học sinh theo các mức sau đây vào giữa học kỳ I, cuối học kỳ I, giữa học kỳ II và cuối năm học:
– Hoàn thành tốt: ngoài việc thực hiện tốt các yêu cầu học tập, học sinh còn thường xuyên có biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt động giáo dục;
– Hoàn thành: ngoài việc thực hiện được các yêu cầu học tập, học sinh còn có biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt động giáo dục;
– Chưa hoàn thành: học sinh chưa thực hiện được một số yêu cầu học tập hoặc chưa có biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt động giáo dục.
Đối với các môn học bắt buộc như Tiếng Việt, Toán, Ngoại ngữ 1, Lịch sử và Địa lí, Khoa học, Tin học và Công nghệ, vào cuối học kỳ I và cuối năm học, sẽ có bài kiểm tra định kỳ để đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Ngoài ra, đối với lớp 4 và lớp 5, cũng có bài kiểm tra định kỳ môn Tiếng Việt và môn Toán vào giữa học kỳ I và giữa học kỳ II.
Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT cũng quy định về quá trình đánh giá thường xuyên về sự hình thành và phát triển từng phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi của mỗi học sinh. Theo đó, giáo viên chủ nhiệm phối hợp với các giáo viên dạy cùng lớp và thông qua các nhận xét để đánh giá học sinh theo các mức sau đây vào giữa học kỳ I, cuối học kỳ I, giữa học kỳ II và cuối năm học:
– Tốt: học sinh đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục, biểu hiện rõ và thường xuyên;
– Đạt: học sinh đáp ứng được yêu cầu giáo dục, biểu hiện nhưng chưa thường xuyên;
– Cần cố gắng: học sinh chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu giáo dục, biểu hiện chưa rõ.
Ngoài việc đánh giá kết quả học tập, cần phải đảm bảo các hoạt động giáo dục phát triển toàn diện cho học sinh, nhằm giúp họ trở thành những công dân có phẩm chất tốt và có khả năng phát triển bản thân. Chẳng hạn, các hoạt động ngoại khóa, tập thể dục, đọc sách, tự giác học tập, rèn luyện kỹ năng sống, v.v.