Phương pháp đánh giá bằng quan sát trong dạy học là gì? Thầy/cô thường sử dụng phương pháp đánh giá bằng quan sát trong dạy học như thế nào? Đây chắc hẳn là câu hỏi được quan tâm rất nhiều từ quý bạn đọc. Bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn trả lời các câu hỏi trên. Cùng theo dõi nhé.
Mục lục bài viết
1. Ưu điểm của Phương pháp quan sát:
Phương pháp quan sát là một hình thức dạy học. Giáo viên hướng dẫn học sinh cách sử dụng các giác quan để nhận thức một cách trực tiếp, nhằm mục đích hướng tới các đối tượng trong TNXH giả sử tiếp nhận thông tin không bị nhiễu. vào quá trình của các sự kiện hoặc hiện tượng.
– Phương pháp quan sát được sử dụng phổ biến trong dạy học các môn khoa học xã hội
– Quá trình quan sát giúp học sinh nhận biết hình dáng, đặc điểm bên ngoài của cơ thể người, cây cối, một số con vật, đồ vật hiện đang diễn ra trong môi trường tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày.
– Sử dụng phương pháp quan sát tạo hứng thú học tập cho học sinh, phù hợp với quá trình tiếp nhận học sinh tiểu học.
– Giáo viên sử dụng phương pháp quan sát giúp giáo viên lưu lại bài giảng có ví dụ minh họa làm cho bài học sinh động, cụ thể, hấp dẫn.
– Phương pháp quan sát dễ kết hợp các phương pháp khác nhau như phương pháp phân tích, phương pháp giảng giải, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đàm thoại làm cho bài giảng không mệt mỏi.
2. Phương pháp đánh giá bằng quan sát trong dạy học là gì?
Phương pháp quan sát giúp xác định thái độ, phản ứng vô thức, kỹ năng thực hành và một số kỹ năng nhận thức.
Thông thường trong quan sát, giáo viên có thể sử dụng 3 loại công cụ để thu thập thông tin. Đó là: Ghi chép các sự kiện thường nhật, thang đo và bảng kiểm tra.
2.1. Ghi chép các sự kiện thường nhật:
Hàng ngày giáo viên làm việc với học sinh, quan sát học sinh và ghi chép nhiều thông tin về hoạt động học tập của học sinh. Ví dụ, học sinh A phát âm sai một vài từ đơn giản, học sinh B luôn thiếu tập trung và nhìn ra ngoài cửa sổ. Học sinh C luôn hoàn thành bài tập sớm và giúp đỡ người khác trong quá trình… Việc sắp xếp hàng ngày như vậy rất quan trọng trong đánh giá. Nó giúp giáo viên dự đoán khả năng và hành vi của học sinh trong các tình huống khác nhau hoặc tính đến kết quả thu được từ các bài kiểm tra viết của học sinh.
Tuy nhiên, giáo viên không có khả năng quan sát và ghi lại tất cả các hành động, sự kiện và khía cạnh của công việc hàng ngày của học sinh, mặc dù chúng có thể là thông tin có giá trị. Vì vậy, cần phải có sự lựa chọn trong quan sát. Để việc quan sát và ghi chép trở nên khả thi, giáo viên cần:
– Hướng các quan sát đến những hành động không thể đánh giá bằng các phương pháp khác.
– Giới hạn quan sát đối với một số loại hành vi tùy thuộc vào mục tiêu giảng dạy của giáo viên.
– Giới hạn phạm vi quan sát ở một số ít học sinh cần sự hỗ trợ đặc biệt của giáo viên.
Giáo viên có thể sử dụng sổ tay. Mỗi học sinh nên được phát một vài tờ sổ ghi chép, trong đó nên tách biệt phần mô tả sự kiện với nhận xét của giáo viên về sự kiện đó.
Để ghi lại các sự kiện hàng ngày của học sinh một cách hiệu quả, giáo viên cần tuân theo một số yêu cầu sau:
– Xác định trước các sự kiện cần quan sát, nhưng cũng phải chú ý đến các sự kiện bất thường.
– Quan sát, ghi chép đầy đủ sự kiện xảy ra trong hoàn cảnh cụ thể để sự kiện đó thêm ý nghĩa.
– Sự kiện cần được ghi lại càng sớm càng tốt.
– Mỗi bản ghi chỉ nên tập trung vào 1 sự kiện.
– Tách biệt phần tả thực sự kiện và phần nhận xét của cá nhân giáo viên.
– Tất cả các hành vi tích cực và tiêu cực nên được ghi lại
– Cần thu thập đầy đủ thông tin trước khi nhận xét, đánh giá về hành vi, thái độ của học sinh.
– Việc ghi chép sự kiện cần được bồi dưỡng, tập huấn cho giáo viên một cách bài bản để ghi chép một cách khoa học, có hệ thống và hỗ trợ cho các hoạt động dạy học, giáo dục.
2.2. Thang đo:
Đánh giá theo thang điểm cần tuân theo các nguyên tắc sau:
– Các tiêu chí của thang đo cần là nội dung dạy học và giáo dục quan trọng
– Các mô tả trong thang đo phải quan sát được trực tiếp
– Các cấp độ và mô tả quy mô phải được xác định rõ ràng.
– Nên bao gồm 3 đến 7 mức trong thang đo và cho phép người sử dụng thang đo đánh dấu khoảng thời gian giữa các mức.
– Nên cho phép người sử dụng thang điểm lược bỏ những câu mà họ cảm thấy chưa đủ bằng chứng để đánh giá.
– Nếu có thể, nên kết hợp kết quả của nhiều người quan sát trên cùng một đối tượng.
Đây là một trong những loại cân đơn giản nhất. Người dùng đánh dấu hoặc khoanh tròn vào một số biểu thị mức độ hoạt động của một sản phẩm chất lượng trong quần thể học sinh. Thông thường, mỗi con số biểu thị mức độ mà nó được mô tả bằng từ ngữ, và hệ thống mô tả này là tốt nhất trong tất cả các câu hỏi về thang điểm. Đôi khi người dùng thang đo chỉ được thông báo rằng số lớn nhất chỉ là cao nhất, nhỏ nhất là thấp nhất, số ở giữa chỉ là số trung bình.
Ví dụ: Cho biết mức độ tham gia thảo luận của học sinh trong lớp bằng cách khoanh tròn vào các số tương ứng. Trong đó: 5 – nhiều nhất, 4 – trên trung bình, 3 – trung bình, 2 – dưới trung bình, 1 – không tham gia.
1. Học sinh tham gia thảo luận ở mức độ nào?
1 | 2 | 3 | 4 | 5 |
2. Những ý kiến đưa ra liên quan đến chủ đề thảo luận ở mức độ nào?
1 | 2 | 3 | 4 | 5 |
Thang đo dạng đồ thị
Thang đo dạng đồ thị mô tả các mức hành động theo một đường thẳng. Người quan sát đánh dấu đoạn thẳng. Một hệ thống các mức được xác định tại các vị trí được xác định rõ nhất trên đường, nhưng người đánh giá vẫn có thể chạm vào điểm giữa của các mức trên đường.
Ví dụ: Cho biết mức độ học sinh tham gia thảo luận trong lớp bằng cách đánh dấu X vào bất kỳ đâu trên dòng bên dưới mỗi câu hỏi.1. Học sinh tham gia thảo luận ở mức độ nào?
2. Những ý kiến đưa ra liên quan đến chủ đề thảo luận ở mức độ nào?
Cần lưu ý rằng các mô tả thang đo trên biểu đồ có thể giống nhau cho tất cả các câu hỏi, nhưng cũng có thể mỗi câu hỏi có một cách mô tả mức độ khác nhau.
Mặc dù mô tả cấp độ ở định dạng đường thẳng, nhưng có thể đánh dấu ở giữa xếp hạng để đánh giá chính xác hơn. Tuy nhiên, dùng một từ để diễn tả độ trên bàn cân cũng không thể rõ ràng hơn là các cửa sổ. Mọi người đều có cách hiểu khác nhau về “đôi khi” và “thường xuyên”.
Thang đo dạng đồ thị có mô tả
Thang đo này sử dụng các cụm từ mô tả để xác định các mức trên đoạn đường. Mô tả này chỉ cho thấy sự khác biệt trong hành vi của học sinh ở các mức độ khác nhau. Một số thang đo chỉ mô tả điểm đầu, điểm giữa và điểm cuối. Một số thang đo khác mô tả bên dưới mỗi điểm của đoạn thẳng. Đôi khi có một đoạn trống bên dưới mỗi câu hỏi để người quan sát đưa ra ý kiến về cách chọn mức độ của họ.
Ví dụ: Cho biết mức độ học sinh tham gia thảo luận trong lớp bằng cách đánh dấu X vào bất kỳ đâu trên dòng bên dưới mỗi câu hỏi.
Học sinh tham gia thảo luận ở mức độ nào?
2.3. Bảng kiểm tra:
Bảng kiểm tra (test board) nhìn và sử dụng gần giống như một chiếc cân. Tuy nhiên, thang đo yêu cầu người đánh giá chỉ cho biết mức độ biểu hiện của một chất hoặc mức độ thông thường của một hành vi, còn bảng kiểm chỉ yêu cầu người đánh giá trả lời một câu hỏi Có – Không đơn giản. Đó là một phương pháp ghi lại để xem liệu một chất biểu hiện hoặc một hành động được thực hiện.
Ví dụ: Checklist, đánh giá quá trình đánh vecni
Hướng dẫn: Trong khoảng trống trước mỗi câu, hãy đánh dấu + nếu hành động đó phù hợp hoặc đánh dấu – nếu hành động đó không đạt yêu cầu.
_________________Đầu tiên. Sử dụng giấy nhanh để chải máy bay đúng cách
_________________ 2. Lau sạch bề mặt bằng loại giẻ phù hợp
_________________ 3. Chọn chế độ quét phù hợp
_________________ 4. Chọn vecni và kiểm tra dòng chảy của vecni
_________________ 5. Đổ lượng dầu bóng cần thiết vào cốc sạch
Trong đánh giá hiệu suất, danh sách kiểm tra có thể được tính theo các bước sau:
– Xác định từng thao tác cụ thể trong hoạt động chấp hành
– Có thể bổ sung những sai phạm nếu thấy có ích cho việc đánh giá
– Sắp xếp các hành vi diễn đàn theo đúng thứ tự
– Hướng dẫn đánh dấu các thao tác khi thao tác đó xảy ra (hoặc đánh số thứ tự các thao tác theo thứ tự thực hiện).
Do học sinh còn nhỏ chưa nhận thức được hành vi của mình, không biết hành động đó là đúng hay sai, nếu không sửa chữa sẽ dần trở thành những đức tính xấu.
Ngoài ra, mỗi phương pháp quan sát kiểm tra đánh giá trên đều có những ưu điểm và hạn chế riêng nên giáo viên có thể vận dụng linh hoạt để ghi nhớ vấn đề.
3. Các phương pháp dạy học TN-XH:
Khi dạy các môn khoa học xã hội, giáo viên cần sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp khác nhau. Vì mỗi phương pháp đều có thế mạnh riêng, tùy theo nội dung bài học mà giáo viên khai thác hợp lý, không nên tuyệt đối hóa một phương pháp nào đó và coi đó là một phương pháp duy nhất.
– Phương pháp quan sát – Phương pháp kể chuyện
– Phương pháp thảo luận – Phương pháp đàm thoại
– Phương pháp đóng vai – Phương pháp điều tra
– Phương pháp thực hành – Phương pháp ®éng n·o
– Phương pháp thí nghiệm – Phương pháp đóng vai
– Phương pháp thảo luận – Phương pháp trò chơi học tập
Tuy nhiên, với đặc thù của bộ môn này, giáo viên cần chú trọng hướng dẫn học sinh biết cách quan sát, đặt câu hỏi, tìm kiếm, phát hiện kiến thức mới về TNXH phù hợp với trẻ. Đối tượng quan sát được là tranh ảnh, sơ đồ, mẫu vật, mô hình, cảnh gia đình, lớp học, cơ sở ở địa phương, cây cối, con vật và một số hiện vật thời tiết cần thiết diễn ra hàng ngày.